Thông báo Seminar khoa học tại Trường Đại học Việt Nhật, ngày 3.12.2016

Academic Seminar for  Infrastructure Engineering Program at  Vietnam Japan University (VJU)

Chủ trì: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Chương trình Kỹ thuật Hạ tầng, VJU

  1. Objective
  • To exchange information on academic research results (including introduction of PhD dissertation in UET – VNU, Hanoi) and actual works among researchers/students and engineers.
  • To share academic information and actual work information to students of MIE.
  1. Target
  • Lecturers/Researchers in other universities
  • Japanese enterprises in the field of infrastructure engineering
  • Students of MIE
  • Lecturers responsible for lectures in MIE

(total 90 persons)

  1. Time and venue
  • Time: 8:00 – 13:00, Dec. 3, 2016 (Sat.)
  • Venue: room 415 – 416, My Dinh Campus of VJU (Luu Huu Phuoc Street,

My Dinh 1, Hanoi)

  1. Agenda: Chairs – Professor Nguyen Dinh Duc and Professor Hironori Kato

7:50 – 8:00      Registration

8:00 – 8:20      “Motorcycle Demand Management in Asian Developing Cities”

–  Prof. Hironori Kato, The University of Tokyo

8:20 – 8:45     “Development of transport infrastructure of Vietnam in recent 20 years” and Introduction about VJU Master Program of Infrastructure Engineering –  Prof. Nguyen Dinh Duc, Dr. Phan Le Binh, VJU

8:45 – 9: 05:  Introduction about main research directions of Advanced Materials and Structures Laboratory, University of Engineering and Technology

– Prof. Nguyen Dinh Duc, Dr. Doan Hong Duc

9:05 – 10: 15   Presentation of PhD Dissertation: “Nonlinear stability analysis for FGM spherical shells” – MSc. Vu Thi Thuy Anh, University of Engineering and Technology, VNU

10:15 – 10:30  Break – Music performances by VJU’s students

10:30 – 10:50  “Warehouse location determination for humanitarian relief distribution in Nepal” – MSc. Rajali Maharjan, Tokyo Institute of Technology

10:50 – 11:10  Advanced materials in civil engineering in Vietnam – Mr. Nguyen Manh Tung, VJU

11:10 – 11:30 “Technology of Binh bridge repair work after collision” – Dr. Nguyen Son Tung, Chodai & Kiso-jiban Việt Nam Co.

11:30 – 11:45  Discussion

11:45 – 13:00  Lunch buffet

 

It is also an effective way to introduce students to basic coding and programming concepts and help them cultivate 21st century college essays for sale essayclick.net learning skills.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – người Thầy của những học trò xuất sắc “made in Vietnam”

Nói đến GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến của Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN – là nhắc đến các học trò thành đạt và giỏi giang với các công trình xuất sắc – made in Vietnam 100% , được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín.

Nguyễn Đình Đức – Người thầy thắp sáng những tài năng

Là người thầy tận tụy và tâm huyết với nghề, với những bài giảng hay, truyền cho học trò cả kiến thức và những cốt lõi và sâu xa trong từng môn học, GS Nguyễn Đình Đức đã thắp lên ở các học trò niềm đam mê với nghề nghiệp và cuốn hút, khơi dậy ở họ những tiềm năng. Chính vì vậy, điều kỳ lạ không phải tất cả các học trò đến với ông đều là sinh viên giỏi, nhưng được ông dìu dắt, các em trở nên say mê và có những em từ học lực trung bình, khá cho đến khi tốt nghiệp đại học đều trở thành học sinh giỏi và xuất sắc.

Hầu hết tất cả các sinh viên trong nhóm nghiên cứu của ông khi tốt nghiệp kỹ sư đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Trong số các học trò của ông thành đạt và được biết đến, như NCS Trần Quốc Quân, SN 1991, chuyển tiếp nghiên cứu sinh (nay đang thực tập tại Vương quốc Anh) đã có 15 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI, Phạm Hồng Công, SN 1992, nay đã có 18 bài báo ISI, Phạm Toàn Thắng SN 1991 khi tốt nghiệp đại học ra trường đã có 5 bài báo ISI (nay đang làm NCS tại Hà Quốc), Vũ Thị Thùy Anh (đang làm NCS, đã có 6 bài ISI), Hoàng Văn Tùng (khi làm luận án và bảo vệ luận án TS năm 2010 đã có 5 bài ISI), còn có các em sinh viên khác đều đã có kết quả chung với thầy công bố trên các tạp chí quốc tế ISI như: Vũ Đình Quang, Vũ Minh Anh, Nguyễn Văn Quyền, Trần Văn Anh, Vũ Đình Luật, Hoàng Văn Tác, Nguyễn Trọng Đạo, Ngô Tất Đạt, Phạm Thị Ngọc Ân và đặc biệt có em còn rất trẻ, mới học hết năm thứ 3 như Phạm Đình Nguyện,…

Điều đáng trân trọng là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện rất khó khăn và thiếu thốn về kinh phí, CSVC, phòng thí nghiệm (PTN). Và đáng quý trọng và khâm phục là tất cả các học trò này của GS Đức đều là các em ở các tỉnh xa, con nhà nghèo, trong số đó có những em có hoàn cảnh gia đình đặc biết khó khăn.

Như vậy có thể thấy để nâng cao chất lượng đào tạo, cần và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố người Thầy là trước tiên và là quan trọng nhất, và chính người Thầy và môi trường ĐHQGHN đã thắp sáng tài năng ở các em. Thầy còn rèn giũa cho các em kỹ năng làm việc theo nhóm, dìu dắt nhau cùng tiến bộ và chỉ dẫn tận tình để các em biết cách tự đọc và tự nghiên cứu, tự nâng cao năng lực kiến thức chuyên môn ngoài những nội dung đã được trang bị trong chương trình đào tạo.

GS Nguyễn Đình Đức nhận bó hoa tươi thắm từ đồng nghiệp, học trò nhân ngày 20-11
GS Nguyễn Đình Đức nhận bó hoa tươi thắm từ đồng nghiệp, học trò nhân ngày 20-11

GS Nguyễn Đình Đức tiếp cận những hướng nghiên cứu mới, hiện đại của Thế giới

Để có được những thành công trên, không chỉ là sự yêu nghề và tâm huyết, mà người thầy phải có trình độ trí thức cao và tư duy nhạy bén, tiếp cận được các hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới.

Trước đây khi còn ở nước ngoài, GS Nguyễn Đình Đức nghiên cứu về vật liệu composite bền và siêu bền nhiệt cacbon-cacbon, được ứng dụng mạnh mẽ trong công nghệ hàng không và vũ trụ, trong công nghệ chế tạo tên lửa. Khi về nước, ông đã nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu vật liệu polymer composite ứng dụng trong điều kiện của Việt Nam, trong đó kết quả nghiên cứu ứng dụng hạt nano để tăng khả năng chống thấm và các tính năng cơ lý cho composite đã được ứng dụng vào công nghiệp đóng tàu composite và được Cục sở hữu trí tuệ cấp Bằng Giải pháp hữu ích.

Năm 2006, nhân chuyến công tác ngắn có mấy ngày tại JAIST (Viện KHCN tiên tiến của Nhật Bản), GS đã tranh thủ vào thư viện tìm hiểu, tiếp cận về vật liệu composite chức năng FGM (vật liệu có cơ lý tính biến đổi).

Ngay sau đó, khi về nước, GS đã bắt tay vào nghiên cứu vấn đề này và 2 năm sau, năm 2008 đã có những kết quả nghiên cứu đầu tiên về FGM được công bố ở Việt Nam. Kể từ đó đến nay, vật liệu FGM đã được nhiều nhà khoa học ở các cơ quan đào tạo và nghiên cứu khác nhau trên cả nước quan tâm nghiên cứu và đã công bố hàng trăm bài báo về vật liệu này. GS Nguyễn Đình Đức và PTN vật liệu và kết cấu tiên tiến do GS phụ trách đã tiếp cận những hướng nghiên cứu rất mới và hiện đại như nano FGM, vật liệu auxetic (có hệ số Poát xông âm, có khả năng hấp thụ sóng nổ, bảo vệ kết cấu – công trình), vật liệu nano composite ứng dụng trong năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.

GS Đức cho biết, chiến lược phát triển của PTN trong những năm tới đây là đi vào 3 lĩnh vực nghiên cứu phục vụ thực tiễn: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu).

Đến nay, PTN của GS đã và đang có quan hệ, hợp tác với các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,…để triển khai các nghiên cứu này và GS cũng là một trong số ít nhà khoa học Việt Nam được Quỹ Newton của Viện Khoa học Công nghệ Hoàng gia Anh tài trợ nghiên cứu – hợp tác.

Đến nay, các thành viên của PTN đã có hơn adana escort adana escort adana escort mersin escort mersin escort mersin escort eryaman escort ankara escort eryaman escort adana escort eryaman escort mersin escort 100 công bố quốc tế ISI, 1 bằng phát minh, 2 bằng sáng chế và đào tạo đại học từ bậc kỹ sư đến tiến sỹ ngành cơ học kỹ thuật, thu hút được nhiều tiến sỹ trẻ của các trường đại học lớn ở trong và ngoài nước cùng hợp tác đào tạo và nghiên cứu. Có thể thấy mô hình xây dựng PTN bằng nội lực trong nước, từng bước chắc chắn, phát triển dần từ nhóm nghiên cứu đến thành lập tổ chức PTN, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, gắn nghiên cứu với thực tiễn như PTN Vật liệu và Kết cấu tiến tiến của GS Đức ở Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN là mô hình hay, rất phù hợp với Việt Nam.

Hiện nay, Nhóm nghiên cứu của GS Đức mỗi năm công bố 10-15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín, được mời báo cáo tại các hội nghị quốc tế lớn, cho thấy trình độ và uy tín không thua kém các nhóm nghiên cứu mạnh nhất của quốc tế. Với sự ủng hộ và quan tâm của lãnh đạo ĐHQGHN và trường ĐH Công nghệ, những năm tới PTN chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đào tạo được nhiều nhân tài hơn nữa cho đất nước.

Chỉ trong thời gian ngắn xây dựng và hoạt động, PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến đã được biết đến trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước. GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN đã được mời tham gia hội đồng biên tập của nhiều tạp chí khoa học ở trong và ngoài nước, làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho 40 tạp chí khoa học có uy tín của quốc tế.

GS Đức và các học trò của mình
GS Đức và các học trò của mình

GS Nguyễn Đình Đức Người thầy gắn trọn với sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu của ĐHQGHN

Không chỉ là nhà giáo, nhà khoa học tâm huyết, GS Nguyễn Đình Đức còn có bề dày trong công tác quản lý các hoạt động khoa học và đào tạo. Hiện nay, GS Đức là Trưởng Ban Đào tạo (Đại học và Sau Đại học) của ĐHQGHN, ông cũng đã kinh qua các cương vị như Trưởng Ban KHCN của ĐHQGHN, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ.

Trên các cương vị của mình, GS đã có những đề xuất và đóng góp tích cực và hiệu quả góp phần vào việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, đổi mới công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, đóng góp tích cực trong công tác đổi mới tuyển sinh, nâng cao chất lượng đào tạo tiến sỹ, xây dựng các mô hình đào tạo mới.

GS cũng là nhà khoa học đã kiên trì và bền bỉ gắn ngành Cơ học tưởng như rất khô khan và chỉ có lý thuyết, chỉ có những công thức và định luật nghiên cứu cơ bản ở ĐHQGHN với các ngành nghề cụ thể và với việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn.

GS là người đã đề xuất và phụ trách tổ chuyên gia xây dựng chương trình đào tạo tiến sỹ Cơ học Kỹ thuật, là người sáng lập PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của trường ĐHCN. GS cũng là người đã đề xuất và có những đóng góp quan trọng xây dựng và triển khai đào tạo ngành Kỹ thuật hạ tầng ở Trường Đại học Việt Nhật và hiện nay GS cũng là Giám đốc của chương trình này.

Với những đóng góp xuất sắc và bền bỉ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nhà giáo – người Thầy – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua, được tặng nhiều Bằng khen của Giám đốc ĐHQGHN, Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ, năm học 2015-2016 ông là chiến sỹ thi đua của ngành Giáo dục Đào tạo và được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III (2016).

Theo Nhật Hồng, dantri.com.vn

SÁNG CHẾ VẬT LIỆU COMPOSITE SỢI THỦY TINH HẠT NANO TITAN OXIT

Sau nhiều năm nghiên cứu về vật liệu tiên tiến và qua nhiều vòng thẩm định của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, sản phẩm “Vật liệu polymer compozit sợi thủy tinh” do GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Khoa Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN) đã được cấp bằng sáng chế.
Vật liệu mới áp dụng trong công nghiệp đóng tàu
Hơn 30 năm kể từ những ngày đầu bước chân vào nghiên cứu khoa học cho đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã chọn cho mình hướng đi bền bỉ và gắn trọn vẹn với nghiên cứu về vật liệu compozite. Những năm làm tiến sỹ và tiến sỹ khoa học ở Nga, Giáo sư đã bắt đầu nghiên cứu về vật liệu compozite ba pha cácbon- cácbon siêu bền nhiệt, siêu nhẹ được ứng dụng cho tên lửa, hàng không vũ trụ. Khi về nước, ngay từ 2002, GS. Nguyễn Đình Đức đã nhanh chóng sử dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại và kết quả nghiên cứu  ở Nga để áp dụng cho lớp vật liệu polymer được ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Khởi đầu là những nghiên cứu tính toán lý thuyết, sau đó là các nghiên cứu thực nghiệm, và trong thời gian 2009-2011, giáo sư đã phối hợp nghiên cứu về khả năng ứng dụng các hạt nano titan oxit trong đề tài Nghị định thư nghiên cứu về vật liệu OLED phát quang do GS. TS. Nguyễn Năng Định làm Chủ nhiệm (Khoa Vật lý Kỹ thuật và Công nghệ nano).

 

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến
Khoa Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN)

 

GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức đã chia sẻ: ý tưởng của sáng chế này nảy sinh từ thực tiễn. Những năm vừa qua, tại Việt Nam, công nghiệp đóng tàu vừa và nhỏ bằng compozite phát triển rất mạnh mẽ, nhưng phần đà máy (bể chứa máy) của tàu thủy hay bị thấm nước, nên việc chống thấm rất quan trọng. Từ đó, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy (Trường Đại học Nha Trang) đã đặt vấn đề với giáo sư về việc xử lý chống thấm cho vật liệu này. Điều may mắn là, nhóm nghiên cứu do GS Nguyễn Đình Đức là trưởng nhóm có thế mạnh về nghiên cứu compozite ba pha (có sợi và hạt) và có cơ sở khoa học cho thấy các sợi có khả năng tăng độ bền, độ cứng và tăng các mô đun đàn hồi của vật liệu; còn các hạt khoáng có tác dụng làm giảm các vết nứt, giúp vật liệu polymer tăng khả năng chịu nhiệt, làm giảm biến dạng không đàn hồi, tăng độ bền khi chịu nén của vật liệu,…Từ những nghiên cứu cơ bản đó, Giáo sư đã đưa ra ý tưởng bổ sung một tỷ lệ hợp lý các hạt nano titan đi-ô-xit với kích thước rất nhỏ để trám lỗ rỗng trong vật liệu polymer, làm tăng cường khả năng liên kết giữa nền polymer với sợi. Từ đó làm tăng độ bền và khả năng chống thấm của vật liệu.
Ngay sau khi GS Nguyễn Đình Đức đưa ra giải pháp như vậy, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy (Trường Đại học Nha Trang) đã ủng hộ mạnh mẽ và hợp tác, hỗ trợ nghiên cứu, chế tạo mẫu và thử nghiệm. Viện nghiên cứu đã chế tạo mẫu theo công nghệ và tỷ lệ vật liệu polymer, sợi và hạt theo tính toán của Giáo sư. Viện đã trực tiếp làm thực nghiệm để kiểm chứng tính chất cơ lý của vật liệu và đồng thời, Giáo sư cũng đã đem mẫu đó kiểm tra, soi chụp tại Phòng thí nghiệm Micro-nano (của Trường Đại học Công nghệ) để chụp và soi cấu trúc. Các kết quả thực nghiệm và kiểm tra cấu trúc (như ở hình 1 và hình 2) cho thấy kết quả rất khả quan: Quả thực các hạt nano đã trám, lấp được những lỗ trống trong polymer và nhờ vậy không chỉ góp phần làm tăng các mô đun đàn hồi, tăng mô men uốn (là thông số quan trọng trong kỹ thuật tàu thủy) mà quả thực có thể tăng khả năng chống thấm cho compozite. Sau khi có kết quả nghiên cứu và thử nghiệm một cách tin cậy và chắc chắn như vậy, tháng 8-2012, Viện nghiên cứu và chế tạo tàu thủy ĐH Nha Trang đã cùng giáo sư thi công, áp dụng vào thực tiễn, chế tạo đà máy trong quá trình đóng tàu bằng compozite tại Viện thành công, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết.

 

Ảnh 1. Vật liệu compozite 2 pha nền polyester sợi thủy tinh thông thường
Ảnh 2. Vật liệu compozite 3 pha nền polyester sợi thủy tinh sau khi bổ sung hạt nano titan oxit

 

Khi nói đến tính ưu việt của vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh, GS. TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định, vật liệu này có đặc tính cơ học cao, có khả năng trơ trong môi trường kiềm và axit, lại nhẹ hơn sắt thép, vì vậy là vật liệu phi kim loại dùng thay thế sắt thép trong các công trình biển và hải đảo, đường ống dẫn truyền hóa chất, đóng tàu,…Hiện nay, ở Việt Nam, vật liệu compozite polymer sợi thủy tinh được ứng dụng nhiều trong công nghiệp đóng tàu (cỡ nhỏ, cỡ trung) làm tàu của ngư dân, tàu và ca-nô tuần tra biển (cảnh sát biển, kiểm ngư,…).
Cuối năm 2012, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã đăng ký sáng chế ở Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam và đến tháng 3/2013, đã có quyết định công nhận hồ sơ hợp lệ. Trải qua 3 năm nỗ lực cùng sự phối hợp của nhóm nghiên cứu, được sự hỗ trợ mạnh mẽ Khoa và của Phòng quản lý khoa học (Trường Đại học Công nghệ), đầu năm 2016, sản phẩm vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh hạt nano titan oxit đã được Cục sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế. Đây là một thành công bước đầu của nhóm nghiên cứu để phát triển những vật liệu mới tiếp theo trong thời gian tới. Khi nhắc đến dự định trong tương lai, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, nhóm sẽ phát triển compozite trong một số lĩnh vực khác liên quan đến vật liệu và kết cấu tiên tiến, như vật liệu compozite chức năng FGM và nano FGM, bê tông chịu mặn cường độ cao, vật liệu mới auxetic (với hệ số Poát xông âm) để chống chịu các điều kiện khắc nghiệt, thích ứng với biến đổi khí hậu và chịu các tải trọng đặc biệt.
Nghiên cứu khoa học cơ bản ứng dụng gắn kết chặt chẽ với công bố quốc tế
Trong những năm nghiên cứu vật liệu mới compozite, điều mà GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tâm đắc nhất là không chỉ nghiên cứu ứng dụng, mà qua hoạt động nghiên cứu đã công bố được nhiều bài quốc tế và gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo. Giáo sư chia sẻ, trước kia không ít nhà khoa học quan niệm nghiên cứu khoa học cơ bản thì khó có ứng dụng hoặc nghiên cứu ứng dụng rất khó công bố quốc tế. Nhưng với sáng chế vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh đã chứng minh giữa khoa học cơ bản ứng dụng và công bố quốc tế có gắn kết chặt chẽ, tiếp cận được với chuẩn mực và trình độ của thế giới. Những kết quả nghiên cứu về composite polymer 3 pha sợi thủy tinh hạt nano titan oxit đã được công bố trên những tạp chí quốc tế có IF (chỉ số ảnh hưởng) cao.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, bằng sự tâm huyết và yêu nghề, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhóm nghiên cứu mạnh về composite được biết đến ở trong và ngoài nước. Các nghiên cứu sinh trong nhóm nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Đức đều là các em xuất sắc, có nhiều bài báo công bố trên các tạp chí có uy tín của nước ngoài, không thua kém gì với các nghiên cứu sinh được đào tạo ở các trường đại học hàng đầu trên thế giới. Theo đề xuất của giáo sư, năm 2015, Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ đã ký quyết định thành lập Phòng thí nghiệm vật liệu Vật liệu và Kết cấu tiến tiến, hoạt động theo mô hình Phòng thí nghiệm vừa nghiên cứu vừa đào tạo, và giáo sư Nguyễn Đình Đức được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng thí nghiệm.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cùng các sinh viên tại hội nghị ICCE 23
Để đạt được những thành công như hiện nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức một lần nữa khẳng định, nhà khoa học cần phải đồng hành với doanh nghiệp vì kinh phí đề tài chỉ hỗ trợ phần nghiên cứu cơ bản, phần thử nghiệm phải được thực hiện theo nhu cầu của thực tiễn, qua đơn đặt hàng từ thực tiễn và có sự hỗ trợ của doanh nghiệp và người sử dụng. Từ đó, mô hình kết hợp có hiệu quả nhất để những sản phẩm khoa học công nghệ đạt được thành công, đi vào cuộc sống là phải có sự kết hợp chặt chẽ 4 nhà: Nhà trường – Nhà khoa học- Doanh nghiệp- Nhà nước. Có thể thấy đây là mô hình của trung tâm nghiên cứu xuất sắc: vừa giải quyết vấn đề thực tiễn, vừa có thể tiến hành nghiên cứu và đào tạo đạt chuẩn quốc tế.

Construct 2 does the hard https://midnightpapers.com work so you don’t have to.

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Trân trọng giới thiệu sách chuyên khảo mới xuất bản bằng tiếng Anh của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức:

Nguyen Dinh Duc, Nonlinear Static and Dynamic Stability of Functionally Graded Plates and Shells. Vietnam National University Press, Hanoi, 2014, 724 pages (Monograph).

dinh duc

Combine fun with learning, challenge and pay someone to write my essay using EssayDragon enhance your brain’s processing speed and performance.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chuyện người thầy cả đời đam mê với sự nghiệp giáo dục

(Trích bài viết trong sách “ Chuyện người giáo viên nhân dân” tập 1 của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam, NXB Văn Hóa- Thông tin, 2014)

Luôn mong muốn cống hiến cho đất nước và sự nghiệp giáo dục, từ bỏ những lời mời hấp dẫn sang công tác và giảng dạy ở nước ngoài để trở về quê hương, đất nước công tác, đóng góp tài n©ăng và sức lực của mình cho Tổ quốc. Đó chính là hình bóng của những con người có tâm, những con người luôn gắn chặt với sự phồn vinh của dân tộc. Hình bóng ấy có cả trong con người ông, một người thầy tâm huyết với nghề, vừa là nhà khoa học nghiên cứu tiếp cận những đỉnh cao của trí thức để giảng dạy, đào tạo sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Người thầy luôn mong muốn nền giáo dục đại học Việt Nam không chỉ hội nhập và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế mà “học phải đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”, người thầy ấy chính là nhà giáo, nhà khoa học – nhà Cơ học, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Continue reading