GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Tự chủ đại học – Đua giáo sư để chạy theo hư danh!”

Câu chuyện trường ĐH Tôn Đức Thắng tự phong GS,PGS bắt nguồn từ việc thực hiện tự chủ đại học đang gây nhiều tranh cãi. Như vậy cho thấy, việc thực hiện tự chủ đại học Việt Nam tuy mới bắt đầu thực hiện nhưng đã nảy sinh hàng loạt vấn đề bất cập như trường nào được thực hiện tự chủ? Tự chủ một phần hay toàn bộ? Ai giám sát tự chủ?…Phóng viên Dân trí đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo ĐHQGHN, Ủy viên Hội đồng chức danh GS ngành Cơ học về vấn đề này.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

“Tự chủ đại học” là phát huy cao nhất phát triển nhà trường.

Tất cả các ý kiến tranh luận về trường ĐH tự phong GS,PGS đều cho rằng xuất phát từ việc bắt đầu thực hiện tự chủ ĐH. Vậy hiểu chính xác tự chủ đại học ở Việt Nam thực hiện như thế nào? GS có thể giải thích rõ?

Trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm tự chủ đại học(UNESCO, Mỹ, EU, OECD, …), nhưng theo tôi hiểu và tóm lược lại một cách giản dị, tự chủ đại học là các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) thoát ra khỏi sự kiểm soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động theo cách thức họlựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do chính cơ sở GDĐH đặt ra. Các thành tố chủ yếu của tự chủ đại học bao gồm: Tự chủ nguồn nhân lực, tự chủ tài chính, tự chủ trong học thuật, tự chủ trong xây dựng chương trình, tuyển sinh, quản lý người học; Tự chủ trong kiểm tra đánh giá và các chuẩn mực văn bằng;….

Tự chủ đại học là yếu tố cơ bản trong quản trị đại học hiện đại, và là xu thế phát triển của các trường đại học trên thế giới. Chính vì vậy, chủ trương trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH là hoàn toàn đúng đắn và cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới, để các cơ sở GDĐH Việt Nam có cơ chế thuận lợi và phát huy mọi nguồn lực phát triển, nhanh chóng hội nhập và tiếp cận với các chuẩn mực như của quốc tế.

Theo tôi hiểu, một cơ sở GDĐH dù có tự chủ đến đâu, thì tóm lại cũng phải đạt được 2 mục tiêu cơ bản bất di bất dịch là giảm bớt (tiến tới cắt hoàn toàn) việc hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và thông qua quyền tự chủ để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Không vì để đạt mục tiêu này mà xem nhẹ mục tiêu kia. Như vậy ngay trong mục tiêu tự chủ, cũng đã có sự ràng buộc?

Với Quyết định 174 và Quyết định 20 của Thủ tướng Chính phủ, có thể đánh giá là việc xét công nhận đạt chuẩn cũng như bổ nhiệm GS, PGS của Việt Nam hiện nay đang từng bước đổi mới, với các tiêu chí ngày càng cao hơn, phân quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH lớn hơn và đang tiếp cận các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.

Điều mà các cơ sở GDĐH của chúng ta, mặc dù quyền tự chủ đại học đã cho phép, nhưng chưa làm đượclà: ví dụ như còn nể nang, dễ dãi khi xem xét ở cấp cơ sở; khi bổ nhiệm GS,PGS chưa mạnh dạn đề ra các tiêu chí cao hơn so với chuẩn của HĐ CDGSNN (chẳng hạn như yêu cầu phải có các công bố quốc tế có giá trị); cũng chưa thực hiện quy định việc đánh giá định kỳ với các chức danh GS và PGS để có thể bổ nhiệm lại hoặc miễn nhiệm.

Chính vì vậy, như tôi đã trao đổi và nêu ý kiến ở bài trả lời phỏng vấn trước đây, việc đổi mới công nhận chuẩn và bổ nhiệm chức danh GS, PGS ở Việt Nam theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, thực chất không chỉ phụ thuộc vào Hội đồng chức danh GS Nhà nước, mà chủ yếu chính là ở sự tự chủ và quyết tâm cao của các cơ sở giáo dục đại học là với hàm ý như vậy.

Vấn đề trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học là xu thế phát triển và là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhưng qua sự việc ĐH Tôn Đức Thắng hiểu là tự chủ cũng có nghĩa là có thể tự bổ nhiệm GS và PGS, bỏ qua các Quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, và những dư luận ý kiến xung quanh sự việc này, tôi thấy nổi lên vấn đề rất lớn về việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học: trao cho ai (phải đáp ứng điều kiện như thế nào trường đại học mới được tự chủ hoàn toàn), trao như thế nào (một phần hay toàn bộ; những gì trường vẫn cần thực hiện theo các quy định của Nhà nước khi đã được tự chủ để đảm bảo chất lượng) và cần giám sát quyền thực hiện tự chủ ra sao để đảm bảo mục đích cuối cùng của “Tự chủ đại học” là phát huy cao nhất nội lực và cơ chế, các nguồn lực để phát triển nhà trường.

Đồng thời phải đạt được nâng cao hiệu quả và chất lượng của giáo dục đại học, đảm bảo được công bằng xã hội và đáp ứng 2 mục tiêu cơ bản của tự chủ đại học là vấn đề cần được tiếp tục xác định rõ hơn, áp dụng thận trọng hơn trong thời gian tới ở Việt Nam.

Đội ngũ GS, PGS phản ánh chất lượng và xếp hạng các trường đại học

Thực tế ở một số nước rất phát triển trên thế giới, vẫn tồn tại song song các trường đại học được trao quyền tự chủ tuyệt đối và các trường vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước?

Các nước ở các khu vực khác nhau có mức độ tự chủ đại học khác nhau, ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ giao cho các cơ sở giáo dục đại học có thể cũng rất khác nhau tùy theo tính chất, chất lượng của các cơ sở giáo dục đó.

Như vậy có thể thấy rất rõ từ kinh nghiệm của thế giới là việc giao tự chủ đại học rất đa dạng, là xu thế phát triển nhưng cũng không thể tùy tiện, bất cứ cơ sở giáo dục đại học nào “xung phong” xin tự chủ hoàn toàn là cho tự chủ hoàn toàn ngay được.

Tự chủ hoàn toàn có nội dung và nội hàm được xác định cụ thể, vì vậy không có nghĩa là được làm tất cả những gì theo ý mình.

Nếu chúng ta học tập áp dụng tiêu chuẩn quốc tế vào việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam, tôi e khó thực hiện được?

Một bài toán có phương trình giống nhau, điều kiện biên khác nhau thì lời giải phải khác nhau chứ, sao lại giống nhau được? Các dư luận ủng hộ tự chủ đại học đang nói đến phương trình mà chưa xem xét các điều kiện biên.

Các ý kiến của các GS đang làm việc tại nước ngoài đều khẳng định ở nhiều nước, việc phong và bổ nhiệm GS, PGS là quyền tự chủ của các trường, và tiêu chí rõ ràng, thủ tục gọn nhẹ, nhưng qua các mô tả của họ, tôi đều thấy có điểm chung, là không tùy tiện, mà có tiêu chí và đòi hỏi rất cao, sự thẩm định chuyên môn rất kỹ và thậm chí có cả thẩm định của các chuyên gia quốc tế.

Điều này cho thấy chức danh GS, PGS đại họcở nước ngoài thực sự là đội ngũ có trình độ cao, có năng lực sáng tạo cao, thực sự là tinh hoa của các trường đại học trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo.

Như vậy, việc phong và bổ nhiệm GS, PGS ở các trường đại học của nước ngoài là việc xem xét đánh giá, thẩm định năng lực, trình độ, kết quả, sự cống hiến trong nghiên cứu và giảng dạy của giảng viên đại học đã có trình độ TS với các tiêu chí rất cao và khắt khe để từ đó phân loại, giao nhiệm vụ và đãi ngộ.Chính vì thế, đội ngũ này còn được xem là tiêu chí quan trọng để kiểm định, đánh giá, phản ánhchất lượng và xếp hạng các trường đại học.

Cho nên nếu theo thông lệ quốc tế, thì việc phong và bổ nhiệm GS, PGS ở các trường đại học của Việt Nam cũng phải đạt được mục đích và nội hàm như vậy, chúng ta phải nhận thức rõ điều này, và do đó, không thể tùy tiện.

Tôi muốn khẳng định lại, là học theo cách làm quốc tế nhưng xin nhớ rằng cũng phải theo các chuẩn mực khoa học quốc tế, yêu cầu cao, rất khắt khe khi xem xét bổ nhiệm GS,PGS và có sự khác biệt rất lớn giữa chức danh GS với PGS. Có như vậy, mới đúng với mục tiêu và bản chất của việc bổ nhiệm các chức danh này trong các trường đại học Việt Nam theo thông lệ của thế giới.

Đa số GS Việt Nam chưa có phòng làm việc riêng, không có kinh phí dự hội nghị, hội thảo quốc tế

Đãi ngộ xứng đáng với tài năng sẽ không có hiện tượng chạy theo hư danh

Nếu so sánh việc phong và bổ nhiệm GS,PGS ở Việt Nam với chuẩn mực của quốc tế, khắt khe như vậy đó là điều đáng mừng, nhân đây tôi muốn GS chia sẻ về vấn đề đãi ngộ GS,PGS ở Việt Nam hiện nay thế nào?

Khi chúng ta so sánh và đánh giá GS, PGS Việt Nam với các GS,PGS ở nước ngoài, cũng như khi đánh giá so sánh GS, PGS nước ngoài với các GS, PGS Việt Nam, phải lưu ý cho toàn diện đặc điểm lịch sử, văn hóa, tính đặc thù, điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện và môi trường làm việc… phải có một sự đánh giá toàn diện, khách quan và công bằng.

Nếu chúng ta sử dụng đúng người có năng lực và đãi ngộ xứng đáng với tài năng và cống hiến thì sẽ không có hiện tượng chạy theo hư danh.Trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, thì vấn đề sử dụng là quan trọng nhất, là chìa khóa để nhân tài được phát huy, từ đó mà nhân tài được nảy nở.

Hiện nay có tình trạng chưa sử dụng đúng người có năng lực. Năng lực và kết quả công việc, kết quả nghiên cứu khác nhau, thậm chí khác xa nhau, nhưng cùng chức danh và đãi ngộ thì như nhau.

Không những thế, lương và chế độ đãi ngộ của Nhà nước với các GS, PGS còn thấp, và quá thấp so với các nước tiên tiến. Cũng chưa có sự khác biệt đáng kể về lương và đãi ngộ giữa GS và PGS.

Trên thực tế có GS đang giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam thấp hơn lương của sinh viên mới ra trường của họ. Đa số GS chưa có phòng làm việc riêng, không có kinh phí dự hội nghị, hội thảo quốc tế; không có kinh phí mời và tiếp các GS nước ngoài đến trao đổi, làm việc; không có kinh phí để cấp học bổng cho các NCS nước ngoài đến làm luận án TS với các GS Việt Nam,…

Giáo sư của các trường đại học lớn có uy tín của Việt Nam, có nhóm nghiên cứu mạnh, có năng lực sáng tạo cao và nhiều thành tích trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu, có nhiều công bố quốc tế cũng không có sự khác biệt đãi ngộ về chế độ chính sách.

Được biết, Nghị định 141 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành từ cuối năm 2013 về chính sách đối với giảng viên, trong đó có những thay đổi mạnh dạn hơn trong việc xếp lương cho GS, PGS trong các cơ sở GDĐH?

Nghị định này đến nay vẫn chưa được thực hiện. Trong các trường đại học vẫn phổ biến hiện tượng trọng chức tước hành chính hơn chức danh GS. Vai trò tự chủ của các GS trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn NCS còn chưa được chú trọng và chưa được tôn trọng thỏa đáng. Đây chính là những bất cập lớn nhất với đội ngũ trí thức có trình độ cao trong các cơ sở GDĐH ở Việt Nam hiện nay.

Theo tôi, cái gốc để phát huy đội ngũ trí thức Việt Nam là vấn đề sử dụng và đãi ngộ (đãi ngộ được hiểu không chỉ lương bổng, mà còn là điều kiện, môi trường làm việc và sự tôn vinh)

Một cách thẳng thắn và công bằng là muốn GS, PGS Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, để từ đó giáo dục đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, chúng ta phải có những bước đột phá trọng việc sử dụng và đãi ngộ, học tập như quốc tế đã tạo điều kiện cho các GS, PGS của họ.

Chính sách đãi ngộ thỏa đáng, sử dụng đúng tài năng, đánh giá và bổ nhiệm, đề bạt cán bộ khách quan – công bằng, đồng thời minh bạch và công khai hoạt động khoa học công nghệ của từng chức danh GS, PGS, TS hằng năm,sẽ vừa là động lực, vừa là tiêu chí để đội ngũ trí thức tự rèn luyện và phấn đấu, tự sàng lọc, cạnh tranh lành mạnh cho phát triển, và sẽ không còn chỗ cho những người bằng cấp thật, học hàm GS,PGS thật nhưng trình độ và kiến thức chưa thật tương xứng tồn tại trong môi trường giáo dục đại học.

Xin trân trọng cám ơn GS!

Theo Dantri

Then launch winterboard, navigate to select themes and tap on evader iph5 widget, evader iph5 uilockscreen and evad3rs cydia icon to select them.

VOV viết về Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức: ĐHQG Hà Nội – “Vườn ươm” các nhà khoa học trẻ

VOV.VN -20 năm qua, ngọn lửa nghiên cứu khoa học đã được các thế hệ thầy trò ĐHQG Hà Nội nuôi dưỡng và thắp sáng.

Thỏa sức nghiên cứu khoa học khi có nhiệt huyết

Việc Phạm Hồng Công, sinh viên năm thứ 4 Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội có tới 5 bài báo đăng trên hệ thống tạp chí quốc tế ISI, trong đó có thời gian chưa đầy 5 tháng, Công đã liên tiếp có 2 bài báo quốc tế đã thực sự trở thành niềm tự hào không chỉ của thầy trò ĐHQG Hà Nội, mà còn là sự khẳng định sức sáng tạo của tuổi trẻ Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

Từ một học sinh có thế mạnh ở những môn tự nhiên với bảng thành tích đáng nể thời học THPT ở tỉnh Vĩnh Phúc, với niềm đam mê kỹ thuật, Công quyết định thi vào Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội. Sức học khá cùng sự chăm chỉ của Công đã lọt vào “tầm ngắm” của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban đào tạo ĐHQG Hà Nội – một giảng viên có nhiều công trình nghiên cứu khoa học được đăng tải trên các tạp chí khoa học quốc tế.

dhqg ha noi: "vuon uom" cac nha khoa hoc tre hinh 1Phạm Hồng Công, sinh viên năm thứ 4 Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội

Vậy là từ khi học năm thứ 2, Công và hơn 10 bạn sinh viên khác chính thức được thầy Đức “dung nạp” vào nhóm nghiên cứu của thầy. Chính môi trường học tập ở ĐHQG, tấm gương và kết quả nghiên cứu khoa học của những sinh viên khóa trước, cùng sự tận tâm của các thầy đã thắp lên trong Công nhọn lửa của niềm đam mê nghiên cứu khoa học, cho dù bước khởi đầu cũng rất gian nan.

Mới đầu, đọc tài liệu Công không hiểu, nhưng với sự hướng dẫn của thầy và của các anh chị đi trước, em dần hiểu vấn đề và từ đó phát triển theo ý tưởng của mình, từng bước hoàn thiện đề tài nghiên cứu.

Công trình nghiên cứu đầu tiên của Công là do sự gợi ý của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức. Từ sự gợi ý này, Công bắt tay vào nghiên cứu vật liệu biến đổi chức năng FGM, bởi đây là loại vật liệu đang phát triển, dùng nhiều trong lĩnh vực hàng không, vũ trụ, điện nguyên tử… và được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.

Đầu tiên, Công đọc những nghiên cứu trước đó của các nhà khoa học, rồi làm phép thử để hiểu nội dung và kiểm chứng khả năng nghiên cứu của mình, sau đó mới đưa ra những ý tưởng trong những điều kiện, môi trường thực tế theo cách tính riêng mà em thấy tối ưu.

Các tính toán ban đầu không đến đích, nhưng em quyết tâm làm lại nhiều lần cho tới khi tìm ra kết quả. Kết quả đề tài nghiên cứu “Ổn định phi tuyến của tâm đối xứng làm bằng vật liệu biến đổi chức năng trên nền đàn hồi sử dụng lý thuyết tạm bậc cao” của Công, được công bố trên tạp chí quốc tế có danh mục ISI đã trở thành động lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên ĐHQG Hà Nội. Công mong muốn những đề tài nghiên cứu của nhóm sẽ sớm đi vào thực tiễn để đóng góp cho xã hội.

Cần tiếp thêm động lực

Nói đến sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học ở ĐHQG Hà Nội, cái tên được các thầy và sinh viên nhắc đến nhiều nhất là Trần Quốc Quân, cựu sinh viên Đại học Công nghệ. Quân sinh năm 1990, quê ở Hà Tĩnh, vốn là cựu học sinh trường THPT Nghèn, huyện Can Lộc. Nhà nghèo lại ở xa trung tâm, Quân không có nhiều thông tin về các trường đại học, song do yêu thích ngành dầu khí nên em chọn thi vào Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội.

dhqg ha noi: "vuon uom" cac nha khoa hoc tre hinh 2
Trần Quốc Quân, cựu sinh viên Đại học Công nghệ

Quân cũng đến với việc nghiên cứu khoa học một cách tình cờ, nhưng với niềm đam mê và sự động viên của các thầy, Quân đã gặt hái thành công. Từ năm 2011 đến nay Quân đã có 7 bài báo quốc tế, trong đó có những công trình nghiên cứu được đánh giá rất cao.

Khác với Công, Quân nghiên cứu về kết cấu vỏ của vật liệu composite, loại được dùng phổ biến trong xây dựng và trong dân dụng. Nhà nghèo, vừa đi học Quân vừa đi làm gia sư, vì vậy để có thời gian nghiên cứu, Quân phải bố trí thời gian hợp lý để đọc tài liệu và làm các thí nghiệm.

Trần Quốc Quân chia sẻ: Việc nghiên cứu khoa học cần tâm huyết, đam mê thực sự, bởi sinh viên phải đọc rất nhiều tài liệu và cần có nhiều thời gian. Tỷ lệ nghiên cứu khoa học trong sinh viên hiện nay còn rất thấp, nguyên nhân có thể do các bạn chưa nhận thức được sự cần thiết của việc nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, các bạn cần động lực để dành tâm huyết cho việc này.

Được “ươm mầm” từ khi bước chân vào giảng đường

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định, ĐHQG Hà Nội xây dựng theo mô hình đại học nghiên cứu tiên tiến, cho nên thực hiện đào tạo kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu khoa học để tiếp cận với đỉnh cao tri thức và hội nhập quốc tế, trên cơ sở đó quay trở lại phục vụ đào tạo chất lượng cao, trình độ cao.

dhqg ha noi: "vuon uom" cac nha khoa hoc tre hinh 3
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết: Ngay từ năm thứ nhất, thứ hai, những sinh viên có khả năng đã được những giáo sư đầu ngành có kinh nghiệm phát hiện và hướng dẫn, nhằm thắp lên ngọn lửa đam mê trong các em. Từng bước giao cho các em những bài báo, tính những công thức đơn giản để kiểm tra, tiếp cận những hướng nghiên cứu cơ bản cũng như hướng nghiên cứu của thế giới, mà thành quả được đánh giá trên những tạp chí quốc tế thuộc hệ thống ISI. Sau đó, nghiên cứu theo hướng ứng dụng, đưa sinh viên vào những nhóm nghiên cứu cùng với các giáo sư, các giảng viên nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn.

Việc có các bài báo, các công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí thuộc hệ thống ISI là vấn đề rất khó, ngay cả đối với các giảng viên. Chính vì vậy, khi thấy sinh viên của trường có bài đăng trên tạp chí thuộc hệ thống ISI đã thực sự tạo động lực, niềm tin để các em quyết tâm theo đuổi mục tiêu nghiên cứu khoa học; tự tin là  kiến thức mình được trang bị có thể tiếp cận với trình độ quốc tế.

Trước đây, việc nghiên cứu khoa học gần như được coi là lĩnh vực riêng của các thầy. Chính vì vậy, hướng thầy trò cùng nghiên cứu khoa học như cách làm của ĐHQG Hà Nội là điểm sáng cần nhân rộng. Từ đó có thể phát huy sức mạnh, sự sáng tạo của lớp trẻ và đây cũng là một trong hướng phát triển của mô hình đại học nghiên cứu, sáng tạo –  xu thế chung của giáo dục đại học ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển./.

Trong 20 năm qua, ngọn lửa nghiên cứu khoa học đã được các thế hệ thầy trò ĐHQG Hà Nội nuôi dưỡng và thắp sáng. Với số lượng các bài báo quốc tế trong hệ thống ISI tăng 20 lần, thành quả nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế đã góp phần khẳng định và nâng tầm vị thế của ĐHQG Hà Nội. Trên cơ sở này, từ năm 2012, bảng xếp hạng quốc tế QS đã ghi nhận và xếp ĐHQG Hà Nội vào nhóm 250 trường đại học nghiên cứu hàng đầu châu Á.
Theo VOV

Now exit winterboard, which will reboot your ios device.

GS Nguyễn Đình Đức tham gia tọa đàm về đào tạo tiến sỹ tại Việt Nam

Ngày 10.11 vừa qua, tại Trụ sở Bộ giáo dục và Đào tạo đã diễn ra buổi Tọa đàm về đào tạo tiến sỹ ở Việt Nam hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Báo Tuổi trẻ  tổ chức. Các vị khách của buổi Tọa đàm có: GS.TSKH Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, GS.TSKH Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo (Đại học và Sau đại học) của ĐHQGHN và PGS.TS Vũ Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tại buổi tọa đàm, các vị khách mời đã thẳng thắn phân tích những tồn tạ, hạn chế và chất lượng của hoạt động đào tạo tiến sỹ hiện nay. Bên cạnh những NCS, Tiến sỹ có chất lượng luận án tiến sỹ tốt, cũng còn những luận án tiến sỹ chưa có chất lượng, gây ra những bức xúc trong xã hội.

Trả lời câu hỏi nóng tại buổi Tọa đàm “Có một thực tế rõ ràng là chất lượng luận án tiến sĩ ở các cơ sở đào tạo không đồng đều và có thể vàng thau lẫn lộn. Nhiều luận án ít giá trị thực tế, không có tính khoa học, như một báo cáo tổng kết… nhưng nghiên cứu sinh vẫn bảo vệ luận án thành công và được cấp bằng tiến sĩ. Liệu có phải do đào tạo tiến sĩ hiện đang chạy theo số lượng và xem nhẹ chất lượng. Quan điểm của Bộ về nhận định này?”, Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho rằng trước hết phải ghi nhận các cơ sở đào tạo đã nỗ lực để đào tạo nhiều tiến sĩ có chất lượng trong điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện nghiên cứu và đào tạo trong nước còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên vẫn có cơ sở đào tạo chạy theo số lượng mà buông lỏng chất lượng”. Theo Thứ trưởng Bùi Văn Ga: “Thực tế, nghiên cứu sinh là các nhà nghiên cứu, sản sinh ra tri thức, trí tuệ mới. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu sinh không xác định rõ động cơ, mục tiêu, không xác định rõ tầm mức hoạt động nghiên cứu của bậc đào tạo tiến sĩ. Ngoài ra, mức đầu tư cho đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam hiện cũng rất thấp, thấp hơn nhiều lần so với mức trung bình của thế giới”- thứ trưởng Ga nhấn mạnh.

Cũng chia sẻ về nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong đào tạo tiến sĩ khiến dư luận bức xúc, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo (ĐH Quốc gia Hà Nội) nhắc lại: “Năm 1976, VN lần đầu tiên đào tạo phó tiến sĩ trong nước. 6 năm sau đào tạo tiến sĩ trong nước trong điều kiện khó khăn. Khó khăn là thế nhưng chất lượng tiến sĩ rất tốt, không có ai kêu ca”.

GS Đức nhận xét: “Trải qua một thời gian dài, việc đào tạo tiến sĩ hiện nay ở Việt Nam đang dần tiếp cận với các chuẩn mức của quốc tế. Có nhiều nghiên cứu sinh trong nước hiện nay có nhiều bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín. Nhiều cơ sở đào tạo cũng đã nỗ lực hướng tới việc đào tạo tiến sỹ có chất lượng tốt. Nhưng phải thừa nhận vẫn có những luận án chưa có chất lượng, chưa đạt yêu cầu”.

Theo GS Đức, tuy cơ sở vật chất chưa đầu tư thỏa đáng, điều kiện nghiên cứu, đào tạo còn thiếu thốn là một nguyên nhân nhưng nhìn lại trước đây, cũng khó khăn nhưng ta đã có nhiều tiến sĩ có chất lượng tốt. Bởi vậy, bất cập hiện nay cần nhìn rộng ra ở những nguyên nhân khác. GS Đức có nêu một số nguyên nhân như:  quy mô đào tạo quá nhiều,  thứ hai là mất cân đối giữa các khối ngành (Hiện nay nghiên cứu sinh khối ngành khoa học tự nhiên công nghệ chỉ bằng khoảng 1/4 so với nghiên cứu sinh khối ngành khoa học xã hội nhân văn và kinh tế, luật), thứ ba là một số nơi, một số chỗ cơ sở đào tạo/giảng viên hướng dẫn luận án còn quản lý lỏng lẻo và dễ dãi trong việc giao hướng dẫn và đề tài luận án cũng như đánh giá chất lượng luận án của nghiên cứu sinh ( Hiện nay cả nước đang triển khai đào tạo 971 ngành tiến sĩ tại 158 cơ sở đào tạo, trong đó có 114 trường đại học, 42 viện nghiên cứu. Quy mô đào tạo tiến sĩ năm học 2015-2016 là 13.598 nghiên cứu sinh  Nguồn: Bộ GD-ĐT) và không thể không nhắc đến việc đầu tư cho đào tạo tiến sỹ hiện nay quá thấp.

GS.TSKH Trần Văn Nhung cho rằng tới đây, khi Bộ GD-ĐT sửa đổi quy chế đào tạo tiến sĩ, trước hết cần phải đưa ra được định nghĩa đầy đu về khái niệm tiến sĩ. Trên thế giới và các nước đều có định nghĩa rất rõ ràng về tiến sĩ. Ngoài ra, cần có quy định chặt chẽ “ai là phản biện, ai nằm trong hội đồng” với những tiêu chuẩn đi kèm không thể thấp được. GS Nhung đề nghị tiêu chuẩn tiến sĩ cần đỏi hỏi những tiêu chuẩn cụ thể. Ví dụ với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, phải có đóng góp mới  về khoa học, yêu cầu không dưới 2 bài báo quốc tế trên các tạp chí  ISI. Riêng khoa học xã hội và nhân văn không bắt buộc có các công bố quốc tế ngay, nhưng cũng cần có những tiêu chuẩn định lượng rành mạch và có lộ trình để từng bước tiếp cận các chuẩn mực của thế giới (Ngay cả ngành khối xã hội nhân văn, ở các nước tiên tiến cũng yêu cầu nghiên cứu sinh khi bảo vệ luận án cũng phải có công bố quốc tế- GS Nhung nhấn mạnh).

PGS.TS Vũ Thị Lan Anh cũng cho rằng ngoài các nguyên nhân và các yếu tố như trên, cũng cần chú trọng đến chất lượng và tiêu chuẩn của người hướng dẫn luận án, gắn đào tạo với nghiên cứu, trình độ ngoại ngữ của nghiên cứu sinh. Các cơ sở cũng cần phải chuẩn bị các điều kiện như : Cán bộ hướng dẫn, phòng thí nghiệm, học liệu.

Đồng tình với các ý kiến trên, GS Nhung chia sẻ: kinh phí đầu tư cho một nghiên cứu sinh một năm như GS Đức dẫn chứng tại ĐHQG HN ở mức 18 triệu đồng là “quá rẻ”, “không có nước nào với giá như thế mà làm được”. Với mức đầu tư quá thấp như vậy mà đòi hỏi chất lượng ngang với các nước tiên tiến như nước Mỹ thì “ngang với biến hóa thần thông”. Vì vậy, theo GS Nhung, ngoài việc chia sẻ với lo lắng của xã hội về chất lượng đào tạo tiến sĩ, chính Bộ GD-ĐT cùng các cơ sở đào tạo cũng phải có trách nhiệm giải thích rõ những bất cập hiện tại trong điều kiện đào tạo tiến sĩ, cần tăng cường đầu tư mạnh mẽ hơn cho bậc đào tạo này.

Thứ trưởng Bùi Văn Ga cũng xác nhận kinh phí đào tạo thấp là khó khăn, vướng mắc lớn trong đào tạo tiến sĩ (các đơn vị đào tạo khác, kinh phí cho đào tạo tiến sĩ là 15 triệu đồng/năm).

Kết luận buổi tọa đàm, Thứ trưởng Ga đánh giá: Ý kiến của các khách mời đã xới lên nhiều vấn đề trong đào tạo tiến sĩ. Quan điểm của Bộ GD-ĐT khi đặt ra việc sửa đổi quy chế đào tạo tiến sĩ là không chỉ thực hiện theo chủ quan của nhóm soạn thảo của Bộ mà rất cần chất xám của nhiều nhà khoa học, các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực, các nhà quản lý….Có thể khi trưng cầu ý kiến, quan điểm, ý nguyện của các cơ sở đào tạo không đồng nhất với ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia. Nhưng việc xem xét cân nhắc trên nhiều kênh khác nhau là rất cần thiết để có thể xây dựng một quy chế sửa đổi, bổ sung tốt nhất có thể, giải quyết được những bất cập kéo dài trong thời gian qua.

Theo Vĩnh Hà – Ngọc Hà (Tuoitre.vn).

Các đường link khác của các báo đưa tin thảo luận về chủ đề này:

http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/20161110/luan-an-khong-co-gia-tri-sao-van-thanh-tien-si/1216834.html

http://www.tienphong.vn/giao-duc/dao-tao-tien-si-siet-so-luong-de-nang-cao-chat-luong-1072080.tpo

http://dantri.com.vn/su-kien/chat-luong-dao-tao-tien-si-viet-nam-thap-nguyen-nhan-do-dau-20161110121910596.htm

http://dantri.com.vn/blog/tien-si-hu-danh-cong-trinh-giai-ngan-va-vang-thau-lan-lon-20161112062720473.htm

http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/chua-co-nuoc-nao-dao-tao-tien-si-re-nhu-viet-nam-339001.html

http://thanhnien.vn/giao-duc/nang-cao-chat-luong-dao-tao-tien-si-625980.html

http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/dao-tao-tien-si-se-duoc-siet-chat-3497219.html

http://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/giao-duc/ban-giai-phap-nang-cao-chat-luong-dao-tao-tien-si-492329

http://cand.com.vn/giao-duc/Siet-chat-cac-dieu-kien-dau-vao-dao-tao-tien-si-416521/

http://toquoc.vn/giao-duc/that-tieu-chi-de-nang-cao-chat-luong-dao-tao-tien-si-218587.html

http://vietbao.vn/Giao-duc/Dao-tao-tien-si-Toa-dam-nhung-van-de-nong/442541920/202/

http://www.baomoi.com/nang-cao-chat-luong-dao-tao-tien-si-de-hoi-nhap-quoc-te/c/20799962.epi

http://tinnonghomnay.net/toa-dam-mo-xe-nhung-bat-cap-trong-dao-tao-tien-si/

http://www.antv.gov.vn/tin-tuc/xa-hoi/nhan-dien-chat-luong-dao-tao-tien-si-o-viet-nam-198195.html

http://vietbao.vn/Giao-duc/Muon-bao-ve-tien-si-phai-co-cong-bo-khoa-hoc-quoc-te/590000212/202/

http://baochinhphu.vn/Giao-duc/Dao-tao-tien-si-Muon-chat-luong-can-dau-tu-tuong-xung/291248.vgp

You have given android spy apps your device the evasi0n look.

Nhân tài giúp nguyên khí quốc gia mạnh lên

(GDVN) – Thời đại nào cũng vậy, nhất là thời đại mà sự hội nhập và cạnh tranh kinh tế đang diễn ra nhanh và quyết liệt trên quy mô toàn cầu.

LTS: Kinh nghiệm cho thấy chìa khóa của sự tăng trưởng vượt bậc của các nước châu Á trong những thập kỷ gần đây như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc chính là bởi các nước này đã thành công trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài. 

Nếu không có nguồn lực trí tuệ để tạo ra những bước phát triển đột phá, các nước kém phát triển sẽ ngày càng tụt hậu và chịu sự lệ thuộc vào các nước phát triển.

Chính vì vậy, việc phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng, trọng dụng, tạo điều kiện để nhân tài được phát huy tài năng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một yêu cầu cấp bách, không thể chậm trễ, có ý nghĩa sống còn vì thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bài viết sau đây của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo (đại học và sau đại học) của Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khái quát nhất về tầm quan trọng trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước từ mô hình cụ thể là ĐHQGHN. 

GS. Nguyễn Đình Đức viết: Triết lý trong đào tạo của ĐHQGHN là đào tạo nhân tài, đào tạo tinh hoa. Đào tạo ở ĐHQGHN không chỉ nhằm trang bị cho sinh viên đầy đủ kiến thức, năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức, mà còn chú trọng đào tạo cho sinh viên các kỹ năng và năng lực tổ chức, đặc biệt là phát triển tư duy, tầm nhìn, tạo cho sinh viên có đầy đủ bản lĩnh và nghị lực để vào đời và sáng nghiệp.

Để có thể hoàn thành được sứ mệnh này, ĐHQGHN (tiền thân là Đại học Tổng hợp Hà Nội) luôn coi trọng việc phát hiện tài năng ngay từ bậc học phổ thông và tiếp theo đó là những năm trên giảng đường đại học.

ĐHQGHN đã xây dựng và hoàn chỉnh các mô hình đào tạo chất lượng cao liên tiếp từ học sinh phổ thông năng khiếu, đến đại học các hệ chất lượng cao, khoa học tài năng và chuẩn quốc tế hay còn gọi là nhiệm vụ chiến lược (riêng chuẩn quốc tế có cả ở cả bậc đại học và sau đại học).


Ảnh minh họa Xuân Trung.

Năng khiếu là bẩm sinh, nhưng nhân tài, những người tài đức không phải tự nhiên sinh ra là có, mà phải do được phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, thử thách và rèn luyện mà nên. Chính vì vậy, việc phát hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài luôn là điều quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta, và là nhiệm vụ hàng đầu của cơ sở giáo dục đại học lớn như ĐHQGHN.

Để chuẩn bị cho triển khai đào tạo tài năng, chất lượng cao, mấu chốt quan trọng nhất là phải chuẩn bị được đội ngũ và xây dựng được chương trình đào tạo tốt, phù hợp. Kế tiếp đó là phải chuẩn bị các điều kiện đảm bảo chất lượng phục vụ công tác đào tạo.

Thuận lợi lớn nhất của ĐHQGHN là luôn có đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo và mạnh trong hệ thống các trường đại học của cả nước.Hiện nay, ĐHQGHN có 3.613 cán bộ viên chức, trong đó có 1879cán bộ khoa học với 51 GS, 336 PGS, 17 TSKH và 864 TS (tỷ lệ TS/CBGD đạt 46,8%, trong đó có 581 TS được đào tạo ở nước ngoài về).

Trường ĐHKHTN và Trường ĐHCN là 2 đơn vị có tỷ lệ tiến sỹ cao, chiếm trên 65%  tổng số CBGD. Đội ngũ cán bộ của ĐHQGHN có thế mạnh là có nhiều nhà khoa học đầu ngành (với 15 giải thưởng Hồ Chí Minh và 10 giải thưởng Nhà nước về KHCN), có uy tín lớn ở trong và ngoài nước về các ngành, chuyên ngành khác nhau thuộc hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, ngoại ngữ, công nghệ, kinh tế, luật học, giáo dục,…

Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã thu hút thêm khoảng 300 GS, PGS của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trong cả nước và hàng trăm nhà khoa học có uy tín của thế giới, trong đó có một số người đạt giải Nobel và các giải thưởng lớn có uy tín khác cùng tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học.

Giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh

Năm 2005, ĐHQGHN đã tiến hành tổng kết Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực tài năng”. Từ 1997-2005, đã có 1.940 sinh viên, 387 học viên và 156 NCS đã tham gia Dự án này.

Với những thành công và bài học kinh nghiệm sau gần 10 năm thí điểm, Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao mô hình đào tạo tài năng bậc đại học của ĐHQGHN,đồng thời chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ ngành liên quan nghiên cứu xây dựng chế độ chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng mô hình bồi dưỡng và đào tạo tài năng, chất lượng cao của ĐHQGHN.

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – tác giả bài viết. Ảnh Xuân Trung

Trên cơ sở chỉ đạo đó, ĐHQGHN đã được Nhà nước đầu tư, tiếp tục triển khai đào tạo tài năng, chất lượng cao nhưng với tư cách là một nhiệm vụ thường xuyên.

Từ năm 2006 trở đi, để tăng cường hội nhập các chuẩn mực quốc tế, trong khi quy mô đào tạo cử nhân tài năng, chất lượng cao còn nhỏ, mức độ “quốc tế hoá” về chương trình, phương pháp đào tạo, ngôn ngữ sử dụng chưa đủ cao, ĐHQGHN bắt đầu triển khai đào tạo các chương trình tiên tiến.

Chương trình đào tạo tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, sử dụng toàn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Đội ngũ giảng viên của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài. Chương trình này chỉ đảm nhận việc phát triển quốc tế hóa một chương trình đào tạo, chưa nhằm mục tiêu phát triển được cả ngành, đơn vị cấp Khoa đạt chuẩn quốc tế.

Tiếp sau chương trình tiên tiến, năm 2007, ĐHQGHN bắt đầu triển khai các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế, còn gọi là chương trình nhiệm vụ chiến lược (ban đầu được gọi là chương trình 16-23, vì tập trung lựa chọn được 16 ngành đại học và 23 chuyên ngành sau đại học tham gia Đề án).

Mục tiêu của chương trình này là xây dựng và phát triển cả ngành, chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế, từ chương trình đào tạo đến đội ngũ, cơ sở vật chất, học liệu, nguồn nhân lực theo các tiêu chí đánh giá xếp hạng nhằm tạo tiền đề và điều kiện để phát triển từng bướctừ bộ môn, khoa đến trường đại học thành viên đạt chuẩn quốc tế và được đầu tư, phê duyệt theo từng đề án cho từng ngành/chuyên ngành.

Đây là mục tiêu và sách lược quan trọng của ĐHQGHN trong quá trình phát triển, nhằm chọn lọc vun cao, từng bước khả thi nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và sức cạnh tranh, thương hiệu của ĐHQGHN, góp phần đổi mới cơ bản giáo dục đại học Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực và chất lượng quốc tế.

Trái tim đào tạo tài năng

Việc tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tài năng, chương trình tiên tiến được đào tạo ở bậc đại học; với các chương trình chất lượng cao và nhiệm vụ chiến lược đã được triển khai đào tạo cả ở bậc đại học và sau đại học.

Chương trình đào tạo được thiết kế tiếp cận và có so sánh với chương trình đào tạo của một số trường đại học có uy tín quốc tế cao.Với các chương trình tiên tiến và nhiệm vụ chiến lược chọn theo chương trình của các trường nằm trong nhóm 100 trường đại học tốt nhất thế giới.

Các chương trình tài năng và chất lượng cao đáp ứng phù hợp 80% các môn học trong chương trình đào tạo của các trường đại học tiên tiến của nước ngoài. Môn số chương trình trong khối xã hội nhân văn có đặc thù riêng, được thiết kế có tính đến sự phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Chương trình đào tạo cử nhân tài năngđược thiết kế riêng đối với những sinh viên xuất sắc, có năng khiếu về một ngành khoa học cơ bản, được thiết kế từ 160 đến 170 tín chỉ, với yêu cầu về trình độ cao hơn và nội dung rộng hơn so với chương trình chuẩn.

Chuẩn đầu ra của chương trình cũng cao hơn chương trình chuẩn, ví dụ chuẩn đầu ra tiếng Anh là C1 (tương đương 6.5 IELTS)

Chương trình đào tạo cử nhân chất lượng caođào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đạt chuẩn khu vực trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ cao, kinh tế – xã hội mũi nhọn và ngoại ngữ, được thiết kế từ 140 đến 155 tín chỉ, trên cơ sở nâng cao, bổ sung một số môn học so với chương trình chuẩn.

Chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế (tiên tiến -TT, nhiệm vụ chiến lược-NVCL) đào tạo theo chương trình và công nghệ đào tạo của các trường đại học tiên tiến có uy tín cao trên thế giới, được điều chỉnh phù hợp với khả năng, điều kiện của ĐHQGHN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đạt mức độ cao nhất theo các tiêu chí kiểm định chất lượng của ĐHQGHN, được thiết kế từ 140 đến 155 tín chỉ.

Ngoài việc trang bị kiến thức sâu và rộng, sinh viên được nâng cao trình độ tiếng Anh và Tin học cũng như các kỹ năng mềm khác (yêu cầu của ĐHQGHN về chuẩn đầu ra là sinh viên tối thiểu có chứng chỉ 5 kỹ năng mềm/100 kỹ năng được định dạng đào tạo). Với các chương trình thạc sỹ của ĐHQGHN, ngoài 4 tín chỉ tiếng Anh cơ bản, học viên còn phải học thêm 3 tín chỉ tiếng Anh chuyên ngành, và với NCS còn có thêm 4 tín chỉ nữa dành cho tiếng Anh học thuật nâng cao.

GS. Nguyễn Đình Đức trên giaoduc.net.vn

 

It features some of the popular titles to utilize with your kids to teach them basics of math and enhance their mathematical thinking.

Thông báo Seminar khoa học tại Trường Đại học Việt Nhật, ngày 3.12.2016

Academic Seminar for  Infrastructure Engineering Program at  Vietnam Japan University (VJU)

Chủ trì: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Chương trình Kỹ thuật Hạ tầng, VJU

  1. Objective
  • To exchange information on academic research results (including introduction of PhD dissertation in UET – VNU, Hanoi) and actual works among researchers/students and engineers.
  • To share academic information and actual work information to students of MIE.
  1. Target
  • Lecturers/Researchers in other universities
  • Japanese enterprises in the field of infrastructure engineering
  • Students of MIE
  • Lecturers responsible for lectures in MIE

(total 90 persons)

  1. Time and venue
  • Time: 8:00 – 13:00, Dec. 3, 2016 (Sat.)
  • Venue: room 415 – 416, My Dinh Campus of VJU (Luu Huu Phuoc Street,

My Dinh 1, Hanoi)

  1. Agenda: Chairs – Professor Nguyen Dinh Duc and Professor Hironori Kato

7:50 – 8:00      Registration

8:00 – 8:20      “Motorcycle Demand Management in Asian Developing Cities”

–  Prof. Hironori Kato, The University of Tokyo

8:20 – 8:45     “Development of transport infrastructure of Vietnam in recent 20 years” and Introduction about VJU Master Program of Infrastructure Engineering –  Prof. Nguyen Dinh Duc, Dr. Phan Le Binh, VJU

8:45 – 9: 05:  Introduction about main research directions of Advanced Materials and Structures Laboratory, University of Engineering and Technology

– Prof. Nguyen Dinh Duc, Dr. Doan Hong Duc

9:05 – 10: 15   Presentation of PhD Dissertation: “Nonlinear stability analysis for FGM spherical shells” – MSc. Vu Thi Thuy Anh, University of Engineering and Technology, VNU

10:15 – 10:30  Break – Music performances by VJU’s students

10:30 – 10:50  “Warehouse location determination for humanitarian relief distribution in Nepal” – MSc. Rajali Maharjan, Tokyo Institute of Technology

10:50 – 11:10  Advanced materials in civil engineering in Vietnam – Mr. Nguyen Manh Tung, VJU

11:10 – 11:30 “Technology of Binh bridge repair work after collision” – Dr. Nguyen Son Tung, Chodai & Kiso-jiban Việt Nam Co.

11:30 – 11:45  Discussion

11:45 – 13:00  Lunch buffet

 

It is also an effective way to introduce students to basic coding and programming concepts and help them cultivate 21st century college essays for sale essayclick.net learning skills.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – người Thầy của những học trò xuất sắc “made in Vietnam”

Nói đến GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến của Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN – là nhắc đến các học trò thành đạt và giỏi giang với các công trình xuất sắc – made in Vietnam 100% , được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín.

Nguyễn Đình Đức – Người thầy thắp sáng những tài năng

Là người thầy tận tụy và tâm huyết với nghề, với những bài giảng hay, truyền cho học trò cả kiến thức và những cốt lõi và sâu xa trong từng môn học, GS Nguyễn Đình Đức đã thắp lên ở các học trò niềm đam mê với nghề nghiệp và cuốn hút, khơi dậy ở họ những tiềm năng. Chính vì vậy, điều kỳ lạ không phải tất cả các học trò đến với ông đều là sinh viên giỏi, nhưng được ông dìu dắt, các em trở nên say mê và có những em từ học lực trung bình, khá cho đến khi tốt nghiệp đại học đều trở thành học sinh giỏi và xuất sắc.

Hầu hết tất cả các sinh viên trong nhóm nghiên cứu của ông khi tốt nghiệp kỹ sư đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Trong số các học trò của ông thành đạt và được biết đến, như NCS Trần Quốc Quân, SN 1991, chuyển tiếp nghiên cứu sinh (nay đang thực tập tại Vương quốc Anh) đã có 15 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI, Phạm Hồng Công, SN 1992, nay đã có 18 bài báo ISI, Phạm Toàn Thắng SN 1991 khi tốt nghiệp đại học ra trường đã có 5 bài báo ISI (nay đang làm NCS tại Hà Quốc), Vũ Thị Thùy Anh (đang làm NCS, đã có 6 bài ISI), Hoàng Văn Tùng (khi làm luận án và bảo vệ luận án TS năm 2010 đã có 5 bài ISI), còn có các em sinh viên khác đều đã có kết quả chung với thầy công bố trên các tạp chí quốc tế ISI như: Vũ Đình Quang, Vũ Minh Anh, Nguyễn Văn Quyền, Trần Văn Anh, Vũ Đình Luật, Hoàng Văn Tác, Nguyễn Trọng Đạo, Ngô Tất Đạt, Phạm Thị Ngọc Ân và đặc biệt có em còn rất trẻ, mới học hết năm thứ 3 như Phạm Đình Nguyện,…

Điều đáng trân trọng là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện rất khó khăn và thiếu thốn về kinh phí, CSVC, phòng thí nghiệm (PTN). Và đáng quý trọng và khâm phục là tất cả các học trò này của GS Đức đều là các em ở các tỉnh xa, con nhà nghèo, trong số đó có những em có hoàn cảnh gia đình đặc biết khó khăn.

Như vậy có thể thấy để nâng cao chất lượng đào tạo, cần và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố người Thầy là trước tiên và là quan trọng nhất, và chính người Thầy và môi trường ĐHQGHN đã thắp sáng tài năng ở các em. Thầy còn rèn giũa cho các em kỹ năng làm việc theo nhóm, dìu dắt nhau cùng tiến bộ và chỉ dẫn tận tình để các em biết cách tự đọc và tự nghiên cứu, tự nâng cao năng lực kiến thức chuyên môn ngoài những nội dung đã được trang bị trong chương trình đào tạo.

GS Nguyễn Đình Đức nhận bó hoa tươi thắm từ đồng nghiệp, học trò nhân ngày 20-11
GS Nguyễn Đình Đức nhận bó hoa tươi thắm từ đồng nghiệp, học trò nhân ngày 20-11

GS Nguyễn Đình Đức tiếp cận những hướng nghiên cứu mới, hiện đại của Thế giới

Để có được những thành công trên, không chỉ là sự yêu nghề và tâm huyết, mà người thầy phải có trình độ trí thức cao và tư duy nhạy bén, tiếp cận được các hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới.

Trước đây khi còn ở nước ngoài, GS Nguyễn Đình Đức nghiên cứu về vật liệu composite bền và siêu bền nhiệt cacbon-cacbon, được ứng dụng mạnh mẽ trong công nghệ hàng không và vũ trụ, trong công nghệ chế tạo tên lửa. Khi về nước, ông đã nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu vật liệu polymer composite ứng dụng trong điều kiện của Việt Nam, trong đó kết quả nghiên cứu ứng dụng hạt nano để tăng khả năng chống thấm và các tính năng cơ lý cho composite đã được ứng dụng vào công nghiệp đóng tàu composite và được Cục sở hữu trí tuệ cấp Bằng Giải pháp hữu ích.

Năm 2006, nhân chuyến công tác ngắn có mấy ngày tại JAIST (Viện KHCN tiên tiến của Nhật Bản), GS đã tranh thủ vào thư viện tìm hiểu, tiếp cận về vật liệu composite chức năng FGM (vật liệu có cơ lý tính biến đổi).

Ngay sau đó, khi về nước, GS đã bắt tay vào nghiên cứu vấn đề này và 2 năm sau, năm 2008 đã có những kết quả nghiên cứu đầu tiên về FGM được công bố ở Việt Nam. Kể từ đó đến nay, vật liệu FGM đã được nhiều nhà khoa học ở các cơ quan đào tạo và nghiên cứu khác nhau trên cả nước quan tâm nghiên cứu và đã công bố hàng trăm bài báo về vật liệu này. GS Nguyễn Đình Đức và PTN vật liệu và kết cấu tiên tiến do GS phụ trách đã tiếp cận những hướng nghiên cứu rất mới và hiện đại như nano FGM, vật liệu auxetic (có hệ số Poát xông âm, có khả năng hấp thụ sóng nổ, bảo vệ kết cấu – công trình), vật liệu nano composite ứng dụng trong năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.

GS Đức cho biết, chiến lược phát triển của PTN trong những năm tới đây là đi vào 3 lĩnh vực nghiên cứu phục vụ thực tiễn: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu).

Đến nay, PTN của GS đã và đang có quan hệ, hợp tác với các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,…để triển khai các nghiên cứu này và GS cũng là một trong số ít nhà khoa học Việt Nam được Quỹ Newton của Viện Khoa học Công nghệ Hoàng gia Anh tài trợ nghiên cứu – hợp tác.

Đến nay, các thành viên của PTN đã có hơn adana escort adana escort adana escort mersin escort mersin escort mersin escort eryaman escort ankara escort eryaman escort adana escort eryaman escort mersin escort 100 công bố quốc tế ISI, 1 bằng phát minh, 2 bằng sáng chế và đào tạo đại học từ bậc kỹ sư đến tiến sỹ ngành cơ học kỹ thuật, thu hút được nhiều tiến sỹ trẻ của các trường đại học lớn ở trong và ngoài nước cùng hợp tác đào tạo và nghiên cứu. Có thể thấy mô hình xây dựng PTN bằng nội lực trong nước, từng bước chắc chắn, phát triển dần từ nhóm nghiên cứu đến thành lập tổ chức PTN, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, gắn nghiên cứu với thực tiễn như PTN Vật liệu và Kết cấu tiến tiến của GS Đức ở Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN là mô hình hay, rất phù hợp với Việt Nam.

Hiện nay, Nhóm nghiên cứu của GS Đức mỗi năm công bố 10-15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín, được mời báo cáo tại các hội nghị quốc tế lớn, cho thấy trình độ và uy tín không thua kém các nhóm nghiên cứu mạnh nhất của quốc tế. Với sự ủng hộ và quan tâm của lãnh đạo ĐHQGHN và trường ĐH Công nghệ, những năm tới PTN chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đào tạo được nhiều nhân tài hơn nữa cho đất nước.

Chỉ trong thời gian ngắn xây dựng và hoạt động, PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến đã được biết đến trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước. GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN đã được mời tham gia hội đồng biên tập của nhiều tạp chí khoa học ở trong và ngoài nước, làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho 40 tạp chí khoa học có uy tín của quốc tế.

GS Đức và các học trò của mình
GS Đức và các học trò của mình

GS Nguyễn Đình Đức Người thầy gắn trọn với sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu của ĐHQGHN

Không chỉ là nhà giáo, nhà khoa học tâm huyết, GS Nguyễn Đình Đức còn có bề dày trong công tác quản lý các hoạt động khoa học và đào tạo. Hiện nay, GS Đức là Trưởng Ban Đào tạo (Đại học và Sau Đại học) của ĐHQGHN, ông cũng đã kinh qua các cương vị như Trưởng Ban KHCN của ĐHQGHN, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ.

Trên các cương vị của mình, GS đã có những đề xuất và đóng góp tích cực và hiệu quả góp phần vào việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, đổi mới công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, đóng góp tích cực trong công tác đổi mới tuyển sinh, nâng cao chất lượng đào tạo tiến sỹ, xây dựng các mô hình đào tạo mới.

GS cũng là nhà khoa học đã kiên trì và bền bỉ gắn ngành Cơ học tưởng như rất khô khan và chỉ có lý thuyết, chỉ có những công thức và định luật nghiên cứu cơ bản ở ĐHQGHN với các ngành nghề cụ thể và với việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn.

GS là người đã đề xuất và phụ trách tổ chuyên gia xây dựng chương trình đào tạo tiến sỹ Cơ học Kỹ thuật, là người sáng lập PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của trường ĐHCN. GS cũng là người đã đề xuất và có những đóng góp quan trọng xây dựng và triển khai đào tạo ngành Kỹ thuật hạ tầng ở Trường Đại học Việt Nhật và hiện nay GS cũng là Giám đốc của chương trình này.

Với những đóng góp xuất sắc và bền bỉ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nhà giáo – người Thầy – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua, được tặng nhiều Bằng khen của Giám đốc ĐHQGHN, Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ, năm học 2015-2016 ông là chiến sỹ thi đua của ngành Giáo dục Đào tạo và được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III (2016).

Theo Nhật Hồng, dantri.com.vn

GIẢI THƯỞNG TÀI NĂNG CƠ HỌC TRẺ MANG TÊN NGUYỄN VĂN ĐẠO NĂM 2016

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, hiện đang là nghiên cứu sinh trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Quân vừa vinh dự nhận giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo.

Chàng trai quê nghèo tới giải thưởng Nguyễn Văn Đạo

Giải thưởng mang tên GS.VS Nguyễn Văn Đạo, nhà Cơ học lỗi lạc của Việt Nam trong lĩnh vực Cơ học. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Cơ học Việt Nam và cũng là Giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN.

Sau khi ông mất, Hội Cơ học Việt Nam đã thành lập quỹ Nguyễn Văn Đạo để tặng thưởng cho những nhà cơ học trẻ tài năng, có đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và đã trở thành giải thưởng có uy tín và danh giá nhất của ngành Cơ học hiện nay. Giải thưởng Nguyễn Văn Đạo lần thứ nhất được trao cho TS. Nguyễn Xuân Hùng (Giảng viên ĐH KHTN – ĐHQG TPCM) năm 2011, và lần thứ 2, được trao cho TS Lê Đình Tuân (giảng viên ĐH Bách khoa TP HCM), năm 2014.

Giải thưởng lần này, Hội Cơ học Việt Nam vừa quyết định trao giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo lần thứ 3, năm 2016 cho Trần Quốc Quân – nghiên cứu sinh của Phòng Thí Nghiệm Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến, Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa – Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN vì những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học.

anh hoi nghi 2

Trần Quốc Quân (ngoài cùng bên trái) cùng với thầy giáo và các bạn của mình

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, tại gia đình nghèo tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Thủ khoa Cơ học Kỹ thuật của Đại học Công nghệ, ĐHQGHN năm 2013.

Ngay từ khi học ở năm thứ 2 ở trường Đại học Công nghệ, Trần Quốc Quân đã bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức. Sau khi tốt nghiệp đại học bậc kỹ sư , Quân được chuyển tiếp làm NCS. Những công trình nghiên cứu của NCS Trần Quốc Quân liên quan đến vật liệu composite chức năng FGM và nano composite. Những đóng góp chủ yếu của các công trình này bao gồm những kết quả chính như sau:

Thứ nhất, các công trình này đã giải quyết thành công bài toán nghiên cứu ổn định tĩnh và đáp ứng động lực học của vỏ composite FGM hai độ cong trên nền đàn hồi chịu các tải cơ, nhiệt và cơ – nhiệt đồng thời. Các tính chất hiệu dụng của các kết cấu được giả sử biến đổi qua chiều dày thành vỏ theo hàm luật luỹ thừa với các lớp khác nhau (kim loại-gốm, kim loại-gốm-kim loại hoặc gốm-kim loại-gốm).

Các tính chất vật liệu thành phần của vật liệu được xét trong cả hai trường hợp độc lập với nhiệt độ và phụ thuộc vào nhiệt độ và đã sử dụng cả lý thuyết vỏ cổ điển cũng như lý thuyết vỏ có biến dạng trượt bậc cao (đến bậc 3).

Thứ hai, giải quyết thành công bài toán vỏ hai độ cong được gia cường bằng các gân dọc và ngang dưới tác động của nhiệt độ. Đây là bài toán phức tạp, vì dưới tác động của nhiệt độ, cả vỏ và gân đều bị biến dạng.

Đồng thời đã nghiên cứu ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường và nền đàn hồi đến ổn định tĩnh và động phi tuyến của vỏ FGM hai độ cong. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây cũng là những công bố sớm đầu tiên về ổn định của vỏ FGM có gân dưới tác động của nhiệt độ.

Thứ ba, đã nghiên cứu ổn định phi tuyến của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện chịu tải trọng điện (piezoelectric FGM): Xác định lực tới hạn, đường cong lực-độ võng, tần số tự nhiên, đáp ứng động học của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện.

Ở kết quả số, ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính chất vật liệu, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường, nền đàn hồi và tải điện đến ổn định phi tuyến của vỏ FGM áp điện được xác định.

Liên quan đến piezoelectric FGM là các bài toán mới và hiện đại trong lĩnh vực cơ học hiện nay và theo như hiểu biết của chúng tôi có thể đây là công bố đầu tiên về ổn định của vỏ FGM áp điện của các nhà khoa học ở Việt Nam.

Cuối cùng, nghiên cứu tính toán ổn định phi tuyến của nanocomposite polyme 3 pha. Vật liệu composite 3 pha được nghiên cứu là composite bao gồm pha nền polyme (polyester, vinylester, epoxy), sợi (thủy tinh, cacbon) và bổ sung thêm pha thứ ba là các hạt gia cường (là các hạt titan oxit) với các phương án chọn tỷ lệ trộn nền, sợi và hạt khác nhau.

Sử dụng các kết quả tính toán các mô đun đàn hồi cũng như hệ số giãn nở nhiệt cho composite polyme 3 pha của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, các công trình đã tính toán ổn định tĩnh và động cho các kết cấu tấm, panel và chỉ ra mối quan hệ ứng xử của vật liệu và kết cấu phụ thuộc vào tính chất và tỷ lệ trộn của các vật liệu thành phần, điều này cho phép có thể dự đoán được khả năng chịu tải của vật liệu và kết cấu, cũng như có thể chủ động thiết kế chế tạo vật liệu mới đáp ứng các điều kiện khai thác mong muốn.

Vươn tầm quốc tế

Trưởng thành trong nhóm nghiên cứu mạnh của Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến – thực hiện gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, dưới sự lãnh đạo khoa học của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, chỉ riêng NCS Trần Quốc Quân đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Đây là những kết quả nghiên cứu xuất sắc với NCS tuổi đời còn rất trẻ và đào tạo 100% tại Việt Nam.

Trần Quốc Quân với thầy giáo, GS Nguyễn Đình Đức

Ngoài ra, bài toán ổn định phi tuyến và đáp ứng động lực học là những vấn đề được quan tâm và có ý nghĩa quan trong, thiết thực trong lĩnh vực cơ học kết cấu. Các kết quả nhận được trong phân tích ổn định của các kết cấu làm từ vật liệu có cơ tính biến đổi sẽ cung cấp các thông tin quan trọng trong việc thiết kế, đảm bảo cho kết cấu hợp lý khi chế tạo và an toàn khi khai thác sử dụng.

Hơn nữa các kết quả nhận được là dưới dạng giải tích (dạng hiển), do đó nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho các nhà thiết kế, chế tạo kết cấu FGM, xây dựng các công trình sử dụng vật liệu FGM, giúp cho các nhà thiết kế, chế tạo, xây dựng,…có thể lựa chọn phù hợp, chính xác sự phân bố vật liệu thành phần trong FGM cũng như các tham số của kết cấu và nền để vừa phát huy được khả năng chịu tải, khả năng kháng nhiệt ưu việt của vật liệu trong môi trường nhiệt độ cao, lại vừa hạn chế được khả năng rạn nứt hoặc phá huỷ của kết cấu có thể xảy ra khi chịu tải cơ lớn, cũng như lựa chọn vật liệu nền hợp lý.

Thành công của Trần Quốc Quân góp phần khẳng định sự lớn mạnh và hội nhập quốc tế của ngành Cơ học Việt Nam và chất lượng đào tạo tiến sỹ theo các chuẩn mực quốc tế tại ĐHQGHN.

Theo Dân trí

Students, teachers and rockstars alike all come here to create and learn.

GS NGUYEN DINH DUC được mời tham gia Ban biên tập của tạp chí quốc tế ISI

GS Nguyễn Đình Đức vinh dự được mời mời tham gia vào Ban biên tập quốc tế của tạp chí quốc tế ISI : Journal of Science and Engineering of Composite Materials (NXB De GRUYTER, IF=0.515): http://www.degruyter.com/view/j/secm.
Đồng thời, GS Nguyễn Đình Đức cũng được mới là Guest Editor của chuyên san “Advances in hybrid composite materials and structures” (Nhà xuất bản SAGE) của Tạp chí ISI Advances in Mechanical Engineering, NXB SAGE, IF=0.55): http://ade.sagepub.com/site/callforpapers/advances-hybrid-composite-materials-structures.xhtml
Như vậy, uy tín của nhóm nghiên cứu ngày càng vươn xa ra cộng đồng khoa học quốc tế.

Dabei erfolgt eine stetige vernetzung zu themen der gesundheitspsychologie Lesen Sie den Artikel und der gesundheitssoziologie sowie zur didaktik der gesundheitsfrderung.

BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NĂM 2015 CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU

Trưởng nhóm: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Năm 2015 đã khép lại và năm mới 2016 đã bắt đầu, nhìn lại chặng đường 1 năm của Nhóm nghiên cứu về vật liệu và kết cấu composite – Đại học Quốc gia Hà Nội (NNC), chúng ta có thể thấy trong năm qua NNC đã nỗ lực vượt bậc và thu được nhiều kết quả tốt đẹp:

Continue reading