Giải pháp nào tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế?

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngày 18/11/2024, tại cuộc gặp các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục nhân dịp kỷ niệm 42 năm Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu chỉ đạo, trong đó có giao mục tiêu nhiệm vụ phấn đấu tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế. Cụ thể đến năm 2030, Việt Nam sẽ là 1 trong 3 nước đứng đầu ASEAN về số lượng các công bố quốc tế và chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học; có trường đại học lọt top 100 trường hàng đầu trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngay sau đó vào tháng 12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, đặt ra mục tiêu lấy chuyển đổi số, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là 3 mũi nhọn đột phá đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên tới. Trong đó phát triển công nghệ cao, khoa học công nghệ (KHCN) là gốc, là giá trị cốt lõi.

Để thực hiện thành công mục tiêu này, các nhà khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu có vai trò then chốt. Các trường đại học không vào cuộc, không đổi mới quyết liệt thì giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh được. Giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh thì KHCN không phát triển, đất nước cũng không thể phát triển được như kỳ vọng của Nghị quyết 57.

Năm 2025 là năm bản lề, các trường đại học, viện nghiên cứu bắt tay vào giai đoạn 5 năm 2025-2030 cùng với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, các trường đại học  Việt Nam cần quyết liệt định hướng lại chiến lược phát triển trong giai đoạn mới để thực hiện thành công chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị. Theo ý kiến của tôi, những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt mà các trường đại học, viện nghiên cứu cần khẩn trương bắt tay vào thực hiện, đó là:

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu

 Một trong những tiêu chí quan trọng nhất để lọt vào bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới chính là chất lượng nghiên cứu khoa học. Các trường cần đầu tư mạnh mẽ vào các nhóm nghiên cứu xuất sắc (research groups of excellence) nhằm tạo ra các công trình có ảnh hưởng lớn, được công bố trên các tạp chí ISI, Scopus Q1 có hệ số ảnh hưởng cao. Đại học là nơi sáng tạo các tri thức mới. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu của một cơ sở giáo dục đại học.

Các trường nên khai thác Nghị định 109 cuối năm 2022 của Chính phủ, thành lập các Quỹ phát triển KHCN để có nguồn tài chính đầu tư cho khoa học. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường nghiên cứu liên ngành, đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu mới, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh để có những công trình mang tính đột phá.

Giáo dục đại học Việt Nam cần có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học.

 Đồng thời, cần đặc biệt đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng các mô hình nghiên cứu hiện đại như các phòng thí nghiệm ảo, nghiên cứu dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm tăng tốc độ và hiệu quả nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần quy hoạch và có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để tiến tới làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược liên quan đến Chiến lược phát triển KHCN và an ninh, quốc phòng của Việt Nam như vật liệu mới, bán dẫn và vi mạch, năng lượng, công nghệ hạt nhân, tự động hóa, công nghệ cao trong nông nghiệp, công nghệ sinh học, khoa học sức khỏe, xây dựng và hạ tầng thông minh, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, đồng thời làm nền tảng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho các tập đoàn công nghệ lớn tầm đa quốc gia của Việt Nam ở những lĩnh vực này trong tương lai.

Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao

Thế mạnh cạnh tranh và nguồn tài nguyên lớn nhất của các trường đại học chính là nguồn nhân lực trình độ cao. Để đạt top 100 thế giới, các trường đại học cần có chính sách đột phá xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong nước, thu hút nhân tài, mời gọi các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài, về giảng dạy và nghiên cứu.

 Đồng thời, để tạo nguồn đội ngũ giảng viên và thúc đẩy NCKH, cần đổi mới đào tạo tiến sỹ. Cần xem các nghiên cứu sinh là nguồn lực KHCN của nhà trường, đầu tư học bổng, đề tài nghiên cứu cho nghiên cứu sinh. Gắn đào tạo nghiên cứu sinh với các nhóm nghiên cứu, thông qua các nhóm nghiên cứu. Đẩy mạnh các chương trình đào tạo tiến sĩ chất lượng cao, đặc biệt là mô hình hợp tác đào tạo tiến sĩ (theo mô hình hỗn hợp), nghiên cứu sinh có thời gian đầu ở trong nước, và sau đó có thời gia đi nghiên cứu ở nước ngoài với các trường đại học danh tiếng quốc tế.

Xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài, cũng như thu hút nhân tài về nước làm việc.

Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học; cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế

Tôi phải dùng từ “cải cách” thay cho từ “đổi mới” vẫn dùng khi nói về chương trình đào tạo.

Hiện nay, ở Việt Nam, giáo dục STEM mới được hiểu chỉ ở bậc trung học phổ thông, ở các trường đại học kỹ thuật – công nghệ mà chưa được chú trọng triển khai toàn diện trong các trường đại học. Trong khi đó những nước phát triển, STEM được chú trọng đặc biệt ở bậc đại học. Không làm tốt đào tạo STEM ở bậc đại học, chúng ta không thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để đẩy mạnh phát triển công nghệ cao, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Các chương trình đào tạo không vững về khoa học cơ bản, chúng ta không thể đi sâu, đi xa để nắm các công nghệ lõi và phát triển công nghệ cao.

Các nhà khoa học cần được quan tâm, tạo cơ hội phát triển để đổi mới sáng tạo.

Do đó, trong thời gian tới, cần thực hiện “cải cách” các chương trình đào tạo ở bậc đại học. Chương trình giảng dạy cần được thiết kế theo hướng liên ngành, có nền tảng STEM, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế số. Đặc biệt tăng cường giảng dạy bằng tiếng Anh, tiến tới xây dựng các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên và giảng viên quốc tế.

Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu

Các trường đại học Việt Nam cần chủ động hơn nữa gia nhập các liên minh giáo dục quốc tế, tham gia vào các mạng lưới như ASEAN University Network (AUN), Times Higher Education (THE) Impact Rankings, QS World University Rankings, từ đó tạo cơ hội  hợp tác nghiên cứu, trao đổi sinh viên và giảng viên, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Phát triển các chương trình liên kết đào tạo có chọn lọc với các trường đại học hàng đầu thế giới (chứ không hợp tác tràn lan như những đại đoạn trước), giúp sinh viên Việt Nam có cơ hội học tập, thực tập và làm việc tại các môi trường học thuật tiên tiến. Trên cơ sở đẩy mạnh các chương trình liên kết đào tạo và chương trình đào tạo chất lượng cao bằng tiếng Anh, đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế, từng bước xây dựng thương hiệu học thuật của giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới.

Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Để không bị tụt hậu và phát triển kinh tế số, các trường đại học phải là những nơi tiên phong đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng LLM trong kỷ nghiên tới, ứng dụng và sử dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn (big data) để tối ưu hóa quản lý, giảng dạy và nghiên cứu trong trường đại học.

Đẩy mạnh phát triển các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong trường đại học, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giữa nhà trường, giảng viên, người học với các doanh nghiệp. Nhà trường phải tạo môi trường động lực để giảng viên, sinh viên bên cạnh khát vọng vươn tới đỉnh cao của khoa học công nghệ, phải có hoài bão và khát vọng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Để sản sinh ra các công nghệ cao, các trường đại học, đặc biệt là các trường kỹ thuật-công nghệ trọng điểm cần nhanh chóng đẩy mạnh xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh tầm quốc tế, từ đó xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Centers of Excellence), phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để tạo điều kiện cho các nghiên cứu đỉnh cao, đi sâu vào các công nghệ cao, các công nghệ lõi, có giá trị cao

 Đẩy mạnh tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế

Những năm qua, kể từ khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi, tự chủ đại học như luồng gió mới, làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học và khởi sắc giáo dục đại học Việt Nam. Tăng cường tự chủ đại học đảm bảo các trường có đủ quyền tự quyết về tài chính, nhân sự và học thuật để thu hút mọi nguồn lực và đẩy nhanh quá trình phát triển, linh hoạt theo chuẩn quốc tế. Tự chủ đại học chính là “khoán 10” trong giáo dục đại học.

Bên cạnh đó, cần áp dụng các mô hình quản trị đại học tiên tiến. Với các đại học công lập cần áp dụng mô hình quản trị đại học như doanh nghiệp phi lợi nhuận, lấy chất lượng cao, trình độ cao, tinh gọn, hiệu quả làm cốt lõi.

Đảm bảo để các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế như ABET, AACSB, AUN-QA,…Đổi mới hệ thống, tiêu chí, quy trình kiểm định chất lượng chặt chẽ, phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Nâng cao vai trò các hiệp hội chuyên môn trong đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo bậc đại học.

Thay cho lời kết

Trong thời đại CMCN 3.0, chúng ta hay nói đến đại học nghiên cứu. Các nghiên cứu về khoa học giáo dục mới nhất cho thấy trong thời đại CMCN 4.0, mô hình của các trường đại học phải là “Đại học thông minh và đổi mới sáng tạo”, với 3 trụ cột cốt lõi là nghiên cứu, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo”. Các trường đại học Việt Nam và cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần chuyển mình mạnh mẽ theo xu thế này, xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại. Đồng thời, phải đề ra những mục tiêu và giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công Nghị quyết 57 và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, phấn đấu đến năm 2030, chúng ta phải là 1 trong 3 nước top đầu ASEAN về công bố quốc tế và có những trường đại học lọt top 100 thế giới.

Mới đây, ngày 1/2/2025, Clarivate công bố kết quả top 50 trường đại học dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo. Trong danh sách này, các trường đại học của Hoa Kỳ đã chiếm 30/50 trường.

Bên cạnh đó, thống kê 5 nước có đầu tư mạnh nhất thế giới cho KHCN năm 2024 cho thấy đứng đầu là Hoa Kỳ với 3,54% GDP, 982 tỷ USD; sau đó là Trung Quốc, 2,72% GDP, 510 tỷ USD; Nhật Bản, 3,36% GDP, 144,6 tỷ USD; Hàn Quốc, 5,3% GDP, 90,6 tỷ USD; Pháp, 2,23% GDP, 62,5 tỷ USD.

Những số liệu này một lần nữa khẳng định các công nghệ cao, đổi mới sáng tạo được ra đời từ trí tuệ của các nhà khoa học, từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Và cũng là bài học để chúng ta thay đổi nhận thức: Để nhanh chóng hiện thực hóa các kết quả nghiên cứu, cần có sự đầu tư nhanh nhất, tốt nhất, tới tầm, xứng tầm của Nhà nước, sự quyết liệt của các trường đại học, sự đồng hành của các doanh nghiệp và sự thôi thúc đổi mới vươn lên từ mỗi cá nhân nhà khoa học, càng thấy Nghị quyết 57 của TW ra đời vào thời điểm này rất đúng và rất trúng, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước.

Các công nghệ cao, cùng với chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là chìa khóa – “chiếc đũa thần” cho sự tăng trưởng đột phá và vươn mình của Việt Nam lên tầm cao mới. Các trường đại học, viện nghiên cứu, nhà khoa học giữ vai trò then chốt và cần phải bắt tay vào cuộc ngay từ năm mới 2025.

Thực hiện thành công Nghị quyết 57 và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, cần sự quyết tâm cao độ, đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, sự thay đổi quyết liệt trong hành động của Quốc hội khi xây dựng luật và các thể chế, của Chính phủ trong chỉ đạo điều hành, cũng như ban hành các nghị định, chính sách và Chiến lược phát triển KHCN và giáo dục quốc gia; sự thay đổi tư duy và nhận thức, hành động của Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành liên quan; sự chuyển mình mạnh mẽ của các trường đại học, của đội ngũ giảng viên và nhà khoa học, cùng sự chung tay của doanh nghiệp và toàn xã hội…

Nghị quyết 57-NQ/TW: Cơ hội lịch sử để đại học Việt Nam khẳng định vị thế

Thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia.

Ngày 18.11.2024, tại cuộc gặp các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục nhân dịp kỷ niệm 42 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20.11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu chỉ đạo, trong đó có giao mục tiêu nhiệm vụ phấn đấu tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc tế. Cụ thể, đến năm 2030, Việt Nam nằm trong 3 nước đứng đầu ASEAN về số lượng các công bố quốc tế và chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học; có trường đại học lọt top 100 trường hàng đầu trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục đại học là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ là một mục tiêu về thứ hạng mà còn là sự khẳng định chất lượng giáo dục, năng lực nghiên cứu và sức ảnh hưởng của nền học thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ngay sau đó vào tháng 12.2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, đặt ra mục tiêu lấy chuyển đổi số, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là 3 mũi nhọn đột phá đưa đất nước trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên tới. Trong đó, phát triển công nghệ cao, khoa học công nghệ là gốc, là giá trị cốt lõi.

Để thực hiện thành công mục tiêu này, nhà khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu có vai trò then chốt. Các trường đại học không vào cuộc, không đổi mới quyết liệt thì giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh được. Giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh thì khoa học công nghệ không phát triển, đất nước cũng không thể phát triển được như kỳ vọng của Nghị quyết 57.

Năm 2025 là năm bản lề, các trường đại học, viện nghiên cứu bắt tay vào giai đoạn 5 năm 2025-2030 cùng với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, các trường đại học Việt Nam cần quyết liệt định hướng lại chiến lược phát triển trong giai đoạn mới để thực hiện thành công chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị.

Theo ý kiến của tôi, những những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt là: Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu; Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao; Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học; cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế; Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu; Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; Đẩy mạnh và hoàn thiện tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra các công trình có tầm ảnh hưởng toàn cầu

Một trong những tiêu chí quan trọng nhất để lọt vào bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới chính là chất lượng nghiên cứu khoa học. Các trường cần đầu tư mạnh mẽ vào các nhóm nghiên cứu xuất sắc (research groups of excellence) nhằm tạo ra các công trình có ảnh hưởng lớn, được công bố trên các tạp chí ISI, Scopus Q1 có hệ số ảnh hưởng cao. Đại học là nơi sáng tạo các tri thức mới. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu của một cơ sở giáo dục đại học.

Các trường nên khai thác Nghị định 109 cuối năm 2022 của Chính phủ, thành lập các Quỹ phát triển khoa học công nghệ để có nguồn tài chính đầu tư cho khoa học. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường nghiên cứu liên ngành, đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu mới, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh để có những công trình mang tính đột phá.

Đồng thời, cần đặc biệt đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng các mô hình nghiên cứu hiện đại như các phòng thí nghiệm ảo, nghiên cứu dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm tăng tốc độ và hiệu quả nghiên cứu.

Bên cạnh đó, cần quy hoạch và có chiến lược đầu tư cho những nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để tiến tới làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược liên quan đến Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và an ninh, quốc phòng của Việt Nam như vật liệu mới, bán dẫn và vi mạch, năng lượng, công nghệ hạt nhân, tự động hóa, công nghệ cao trong nông nghiệp, công nghệ sinh học, khoa học sức khỏe, xây dựng và hạ tầng thông minh, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo,… Đồng thời, làm nền tảng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho các tập đoàn công nghệ lớn tầm đa quốc gia của Việt Nam ở những lĩnh vực này trong tương lai.

Phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao

Thế mạnh cạnh tranh và nguồn tài nguyên lớn nhất của các trường đại học chính là nguồn nhân lực trình độ cao. Để đạt top 100 thế giới, các trường đại học cần có chính sách đột phá xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong nước, thu hút nhân tài, mời gọi các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài, về giảng dạy và nghiên cứu.

Đồng thời, để tạo nguồn đội ngũ giảng viên và thúc đẩy nghiên cứu khoa học, cần đổi mới đào tạo tiến sĩ. Cần xem các nghiên cứu sinh là nguồn lực khoa học công nghệ của nhà trường, đầu tư học bổng, đề tài nghiên cứu cho nghiên cứu sinh. Gắn đào tạo nghiên cứu sinh với các nhóm nghiên cứu, thông qua các nhóm nghiên cứu. Đẩy mạnh các chương trình đào tạo tiến sĩ chất lượng cao, đặc biệt là hợp tác đào tạo tiến sĩ theo mô hình hỗn hợp (nghiên cứu sinh có thời gian đầu ở trong nước và sau đó có thời gian đi nghiên cứu ở nước ngoài) với các trường đại học danh tiếng quốc tế.

Xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài, cũng như thu hút nhân tài về nước làm việc.

Cần xây dựng cơ chế lương và đãi ngộ hợp lý để giữ chân nhân tài, khuyến khích giảng viên và nhà khoa học trong nước cống hiến lâu dài (Hình minh họa)

Đẩy mạnh giáo dục STEM ở bậc đại học, cải cách chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế

Tôi phải dùng từ “cải cách” thay cho từ “đổi mới” vẫn dùng khi nói về chương trình đào tạo.

Hiện nay, ở Việt Nam, giáo dục STEM mới được hiểu chỉ ở bậc trung học phổ thông, ở các trường đại học kỹ thuật – công nghệ mà chưa chú trọng triển khai toàn diện trong các trường đại học. Trong khi đó những nước phát triển, STEM được chú trọng đặc biệt ở bậc đại học. Không làm tốt đào tạo STEM ở bậc đại học, chúng ta không thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để đẩy mạnh phát triển công nghệ cao, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Các chương trình đào tạo không vững về khoa học cơ bản, chúng ta không thể đi sâu, đi xa để nắm các công nghệ lõi và phát triển công nghệ cao.

Do đó, trong thời gian tới, cần thực hiện “cải cách” các chương trình đào tạo ở bậc đại học. Chương trình giảng dạy cần được thiết kế theo hướng liên ngành, có nền tảng STEM, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế số.

Đồng thời, áp dụng các mô hình đào tạo tiên tiến như blended learning (học tập kết hợp online và offline), personalized learning (học tập cá nhân hóa) nhằm tối ưu hóa trải nghiệm người học.

Đặc biệt, cần tăng cường giảng dạy bằng tiếng Anh, tiến tới xây dựng các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên và giảng viên quốc tế.

Mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới đại học toàn cầu

Các trường đại học Việt Nam cần chủ động hơn nữa gia nhập các liên minh giáo dục quốc tế, tham gia vào các mạng lưới như ASEAN University Network (AUN), Times Higher Education (THE) Impact Rankings, QS World University Rankings, từ đó tạo cơ hội hợp tác nghiên cứu, trao đổi sinh viên và giảng viên, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Phát triển các chương trình liên kết đào tạo có chọn lọc với các trường đại học hàng đầu thế giới (chứ không hợp tác tràn lan như những đại đoạn trước), giúp sinh viên Việt Nam có cơ hội học tập, thực tập và làm việc tại các môi trường học thuật tiên tiến.

Trên cơ sở đẩy mạnh các chương trình liên kết đào tạo và chương trình đào tạo chất lượng cao bằng tiếng Anh, đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế, từng bước xây dựng thương hiệu học thuật của giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới.

Sinh viên quốc tế tại Trường Đại học Ngoại thương giao lưu trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của Việt Nam

Hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Để không bị tụt hậu và phát triển kinh tế số, các trường đại học phải là những nơi tiên phong đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng LLM trong kỷ nguyên mới, ứng dụng và sử dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn (big data) để tối ưu hóa quản lý, giảng dạy và nghiên cứu trong trường đại học.

Đẩy mạnh phát triển các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong trường đại học, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giữa nhà trường, giảng viên, người học với các doanh nghiệp. Nhà trường phải tạo môi trường động lực để giảng viên, sinh viên bên cạnh khát vọng vươn tới đỉnh cao của khoa học công nghệ, phải có hoài bão và khát vọng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.

Để sản sinh ra các công nghệ cao, các trường đại học, đặc biệt là các trường kỹ thuật – công nghệ trọng điểm cần nhanh chóng đẩy mạnh xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh tầm quốc tế. Từ đó, xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Centers of Excellence), phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để tạo điều kiện cho các nghiên cứu đỉnh cao, đi sâu vào các công nghệ cao, các công nghệ lõi, có giá trị cao

Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy cần làm tốt mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp và nhà khoa học. Không xây dựng được thể chế và mô hình hoạt động hiệu quả trên cơ sở lợi ích hài hòa của các bên liên quan thì rất khó để thực hiện được đổi mới sáng tạo và thúc đẩy nghiên cứu phục vụ thực tiễn của các trường đại học.

Đẩy mạnh và hoàn thiện tự chủ đại học và quản trị đại học theo mô hình quốc tế

Những năm qua, kể từ khi Luật giáo dục đại học sửa đổi, tự chủ đại học như luồng gió mới, làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học và khởi sắc giáo dục đại học Việt Nam. Tăng cường tự chủ đại học đảm bảo các trường có đủ quyền tự quyết về tài chính, nhân sự và học thuật để thu hút mọi nguồn lực và đẩy nhanh quá trình phát triển, linh hoạt theo chuẩn quốc tế. Tự chủ đại học chính là “khoán 10” trong giáo dục đại học.

Tuy nhiên, trong mấy năm thực hiện, bên cạnh những thành tựu, cũng xuất hiện những hạn chế, bất cập từ thực tiễn mà chúng ta chưa lường hết được. Do đó, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh và hoàn thiện mô hình tự chủ đại học, để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Bên cạnh đó, cần áp dụng các mô hình quản trị đại học tiên tiến. Với các đại học công lập cần áp dụng mô hình quản trị đại học như doanh nghiệp phi lợi nhuận, lấy chất lượng cao, trình độ cao, tinh gọn, hiệu quả làm cốt lõi.

Đảm bảo để các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế như ABET, AACSB, AUN-QA,… Đổi mới hệ thống, tiêu chí, quy trình kiểm định chất lượng chặt chẽ, phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Nâng cao vai trò các hiệp hội chuyên môn trong đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo bậc đại học.

Trong thời đại CMCN 3.0, chúng ta hay nói đến đại học nghiên cứu. Các nghiên cứu về khoa học giáo dục mới nhất cho thấy trong thời đại CMCN 4.0, mô hình của các trường đại học phải là đại học Thông minh và Đổi mới sáng tạo, với 3 trụ cột cốt lõi là nghiên cứu, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Các trường đại học Việt Nam và cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần chuyển mình mạnh mẽ theo xu thế này, xây dựng Chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại.

Đồng thời, phải đề ra những mục tiêu và giải pháp hiệu quả để thực hiện thành công Nghị quyết 57 và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, phấn đấu đến 2030, chúng ta phải là một trong 3 nước top đầu ASEAN về công bố quốc tế và có những trường đại học lọt top 100 thế giới.

Mới đây, ngày 1.2.2025, Clarivate vừa công bố kết quả top 50 trường đại học dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo (Innovation), được phân tích, xác định và từ đó xếp hạng các trường đại học có tên trong các bài báo khoa học được trích dẫn cao nhất từ các bằng sáng chế được cấp cho các công ty và các tổ chức từ cơ sở dữ liệu Clarivate 2024. Trong danh sách này, các trường đại học của Hoa Kỳ đã chiếm 30/50.

Bên cạnh đó, thống kê 5 nước có đầu tư mạnh nhất thế giới cho khoa học công nghệ năm 2024 cho thấy đứng đầu là Hoa Kỳ, 3,54% GDP, 982 tỷ USD; sau đó là Trung Quốc, 2.72% GDP, 510 tỷ USD; Nhật Bản, 3,36% GDP, 144,6 tỷ USD; Hàn Quốc, 5,3% GDP, 90,6 tỷ USD; Pháp, 2,23% GDP, 62,5 tỷ USD.

Những số liệu này một lần nữa khẳng định các công nghệ cao, đổi mới sáng tạo được ra đời từ trí tuệ của các nhà khoa học, từ các trường đại học, viện nghiên cứu, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của các trường đại học và cũng là bài học để chúng ta thay đổi nhận thức.

Theo đó, để nhanh chóng hiện thực hóa các kết quả nghiên cứu, cần có sự đầu tư nhanh nhất, tốt nhất, tới tầm, xứng tầm của Nhà nước, sự quyết liệt của các trường đại học, sự đồng hành của các doanh nghiệp và sự thôi thúc đổi mới vươn lên từ mỗi cá nhân nhà khoa học. Càng thấy Nghị quyết 57 của Trung ương ra đời vào thời điểm này rất đúng và rất trúng, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước.

Các công nghệ cao, cùng với chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là chìa khóa – chiếc đũa thần cho sự tăng trưởng đột phá và vươn mình của Việt Nam lên tầm cao mới: quốc gia giàu mạnh, hùng cường, sánh vai các cường quốc năm châu trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước. Các trường đại học, viện nghiên cứu, nhà khoa học giữ vai trò then chốt và cần phải bắt tay vào cuộc ngay từ năm mới 2025.

Thực hiện thành công Nghị quyết 57 và đưa các trường đại học Việt Nam lọt vào top 100 thế giới là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội lịch sử để khẳng định vị thế học thuật và phát triển nền tri thức quốc gia.

Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, cần sự quyết tâm cao độ, đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, sự thay đổi quyết liệt trong hành động từ Quốc hội khi xây dựng luật và các thể chế, của Chính phủ trong chỉ đạo điều hành, cũng như ban hành các nghị định, chính sách và Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ và Giáo dục quốc gia; sự thay đổi tư duy và nhận thức, hành động của Bộ Tài chính, Bộ GD-ĐT, Bộ KHCN và các bộ ngành liên quan; sự chuyển mình mạnh mẽ của các trường đại học, của đội ngũ giảng viên và nhà khoa học, cùng sự chung tay của doanh nghiệp và toàn xã hội.

Chúng ta đã có những lĩnh vực lọt vào top 500 thế giới. Nếu chúng ta đồng lòng thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chiến lược trên, tôi tin rằng trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ có những trường đại học vươn tầm top 50-100 thế giới, đóng góp quan trọng vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Người tài thường có cá tính, không xun xoe, quỵ lụy, không thích nói nịnh

TPO – Trao đổi với phóng viên Tiền Phong, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh, không chỉ là tuyển dụng, mà với nhân tài, cần cơ chế lương đột phá. Lương, đãi ngộ không cao, không tương xứng thì khó mà thu hút được nhân tài. Quan trọng hơn, là lãnh đạo các đơn vị phải trân trọng người tài. Người tài thường có cá tính, không xun xoe, quỵ lụy, không thích nói nịnh.

Muốn “giàu mạnh, hùng cường” thì chỉ có con đường phát triển KHCN
Thưa giáo sư, trong bài phát biểu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 57 mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm nói, Nghị quyết 57 là “nghị quyết đột phá tư duy khoa học”. Tìm hiểu về Nghị quyết 57, giáo sư nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

Trước đây, chúng ta hay nói chung là phát triển khoa học công nghệ (KHCN), nhưng chưa đi đến cùng vấn đề. Theo tôi hiểu, Nghị quyết 57 đã chỉ thẳng vào chiến lược phát triển các công nghệ cao. Lấy công nghệ cao, công nghệ lõi làm trọng tâm, làm đòn bẩy, chứ không phải KHCN chung chung mà các nghị quyết trước đây vẫn nhắc đến.

Trong một bài phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm có nhắc đến chuyến thăm Ireland gần đây, đất nước nhỏ bé và chỉ có khoảng hơn 5 triệu dân, từ một nước nghèo đói, thu nhập đầu người thấp nhất châu Âu, giờ đây họ vươn lên có mức thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 2 thế giới. Tất cả là nhờ họ tập trung phát triển các công nghệ cao.

Tiềm lực của quốc gia phải dựa trên nền tảng phát triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất chủ đạo hiện nay là phải làm chủ và áp dụng công nghệ cao, nắm được các công nghệ lõi. Đó chính chiếc đũa thần cho sự phát triển đột phá của quốc gia.
Hay như ở Hàn Quốc, những năm 1960, họ cũng ở mức nghèo, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng hơn 200USD. Tại cuộc gặp mặt đầu năm mới 1967, Hàn Quốc rất vui mừng vì xuất khẩu sản phẩm dệt len được 100 triệu USD. Nhưng, lãnh đạo Viện năng lượng nguyên tử quốc gia Hàn Quốc khi đó trao đổi với Tổng thống Park Chung – hee rằng, Hàn Quốc không nên vui mừng vì dệt len đạt kết quả cao, vì Nhật Bản đã xuất khẩu 1 tỷ đô la hàng điện tử sang Hoa Kỳ. Hàn Quốc muốn đi lên phải tập trung phát triển bằng KHCN. Từ ý tưởng này, được sự đồng ý từ lãnh đạo cấp cao nhất, Viện Khoa học công nghệ tiên tiến của Hàn Quốc (KIST) ra đời. Từ đó, vượt qua nhiều khó khăn, bằng sự phát triển KHCN, Hàn Quốc vươn mình, có những tập đoàn công nghệ hàng đầu và trở thành quốc gia phát triển như hiện nay.

Từ thực tiễn phát triển của Ireland, Hàn Quốc, hay của Nhật Bản, Trung quốc, Ấn Độ,…đều thấy các quốc gia đều lấy KHCN làm đột phá để phát triển. Và trong bối cảnh KHCN và CMCN 4.0 phát triển mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Nghị quyết 57 đề cập vấn đề đột phá phát triển đất nước lấy KHCN làm nền tảng, các công nghệ cao là trọng tâm. Cần nhận thức những nội dung cần thiết phải làm, từ nhận thức để chuyển sang hành động. Từ sự phát triển của Hàn Quốc có thể rút ra bài học, muốn đột phá phát triển KHCN thành công phải có 3 yếu tố cốt lõi then chốt: Một là chiến lược đúng đắn; cơ chế chính sách đúng đắn; hai là lãnh đạo cao nhất chỉ đạo quyết liệt, sát sao, quan tâm hết mức đến khoa học; và ba là lãnh đạo các trường đại học, các viện nghiên cứu có bản lĩnh, có tâm và có tầm. Từ đó tạo ra động lực, hoài bão, nhận thức của cả đất nước, chính phủ, các trường đại học tạo mọi điều kiện cao nhất, tốt nhất cho các nhà khoa học tài năng nghiên cứu và cống hiến, sáng tạo.

Tôi cũng từng chứng kiến mấy năm trước, tại một hội nghị về phát triển KHCN, có ý kiến cho rằng, Việt Nam nên tập trung phát triển nông nghiệp, du lịch, bởi đất nước mình nền tảng là nông nghiệp. Tôi có phát biểu rằng, phát triển nông nghiệp và du lịch là đúng, nhưng từ kinh nghiệm Hàn Quốc nếu chỉ trông vào nông nghiệp và du lịch thì có lẽ đất nước sẽ phát triển được ở mức “ấm no, hạnh phúc” thôi, còn nếu muốn “giàu mạnh, hùng cường” thì chỉ có con đường tập trung vào phát triển KHCN, coi khoa học công nghệ là nền tảng. Vì các sản phẩm KHCN cao mới đem lại các giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh để tăng trưởng nhanh và tiềm lực mạnh cho quốc gia.

‘Chiếc đũa thần’ cho sự phát triển đột phá của đất nước

Cũng có ý kiến cho rằng, nên tận dụng trí tuệ của nhân loại, bởi thế giới hiện nay là “phẳng”, có thể mua, chuyển giao được. Nhưng với những công nghệ lõi, công nghệ chiến lược, chính là những “nỏ thần” của quốc gia, họ không bán và có tiền không mua được. Cách duy nhất để độc lập tự chủ và khẳng định vị thế quốc gia là đất nước giàu mạnh hùng cường, dựa vào năng lực của chính mình, thông qua tiềm lực KHCN và làm chủ các công nghệ cao, công nghệ chiến lược.

Hiện nay, đang là thời đại của CMCN 4.0 với sự phát triển như vũ bão của trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số. Nếu không có dữ liệu lớn, không chuyển đổi số, không phát triển được nền kinh tế số và chúng ta sẽ không theo kịp được thế giới.

Nhưng chỉ có chuyển đổi số và kinh tế số thôi thì chưa đủ. Tiềm lực của quốc gia phải dựa trên nền tảng phát triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất chủ đạo hiện nay là phải làm chủ và áp dụng công nghệ cao, nắm được các công nghệ lõi. Đó chính chiếc đũa thần cho sự phát triển đột phá của quốc gia.

Nghị quyết 57 cũng như trong các bài phát biểu của Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh yếu tố “đổi mới sáng tạo”, tức là từ công nghệ cao, từ nền tảng KHCN phải tạo ra sản phẩm mới, ứng dụng vào thực tiễn, đem lại gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, cho tổ chức, từ đó mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước, nhân dân và là cơ sở để sớm hình thành những tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Việt Nam có tính toàn cầu.

Như vậy, có thể thấy có 3 từ khoá quan trọng nhất trong Nghị quyết 57 là: Chuyển đổi số, Công nghệ cao, và đổi mới sáng tạoTrọng tâm là 3 vấn đề đó. Việc đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số chưa bao giờ cấp bách như hiện nay. Bởi hiện nay, trên cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ mới, thế giới đang phát triển khủng khiếp, công nghệ thay đổi từng ngày, AI can thiệp vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, nếu không nhanh thì chúng ta sẽ lỡ mất thời cơ.

Nghị quyết 57 có ý nghĩa lịch sử. Quá kịp thời, đúng và trúng, quyết liệt, cụ thể, sâu sắc – đột phá trong thay đổi tư duy và hành động và cũng thể hiện mong mỏi, hoài bão, kỳ vọng và quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta lấy Chuyển đổi số, Công nghệ cao, và đổi mới sáng tạo làm nền tảng để chấn hưng đất nước, quá quan trọng đối với sự phát triển của đất nước ta trong thời gian tới.

Nỗi trăn trở về mức lương trí thức chưa bằng một người giúp việc

Vậy, chúng ta cần tập trung vào những nội dung cốt lõi nào để triển khai Nghị quyết 57, thưa giáo sư?

Theo tôi, có mấy vấn đề cần đặc biệt quan tâm triển khai mà Nghị quyết 57 cũng đã nhấn mạnh là: thể chế, nguồn lực (bao gồm cả con người và tài chính), hạ tầng, dữ liệu, công nghệ cao.

Đầu tiên bàn về vấn đề thể chế. Trong Hội nghị tổng kết Nghị quyết 27 về đội ngũ trí thức, tôi có phát biểu rằng, lương tiến sĩ theo ngạch bậc Nhà nước chỉ khoảng 7 triệu, còn thua mặt bằng lương của người làm giúp việc trong các gia đình ở Hà Nội hiện nay. Rồi chính sách trong đề án ưu đãi đào tạo tiến sĩ trong nước đạt chuẩn quốc tế theo Thông tư 35 năm 2012, cần phải đầu tư tiền cho nghiên cứu sinh trong nước được tham gia nghiên cứu, các hội thảo, hội nghị ở trong và ngoài nước,… nhưng rồi chi phí bị cắt giảm hết dẫn tới thất bại trong triển khai vì “đầu tư chưa tới bến”. Rồi có những đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước từ khi đề xuất đến 4 năm chưa phê duyệt. Những tâm lý tủn mủn, chậm đổi mới, không thấu hiểu để theo kịp thực tiễn là những cản trở, làm chậm sự phát triển của KHCN và xã hội.

Chúng ta đổi mới 20 – 30 năm rồi, nhưng chính sách tiền lương theo ngạch bậc không thay đổi, 3 năm tăng một bậc, mỗi bậc vài trăm nghìn, không là gì cả so với lạm phát và mức đảm bảo đủ sống cho một trí thức có bằng tiến sĩ. Một trí thức, học hành xán lạn, thủ khoa… học giỏi, đi học ở nước ngoài về, có bằng tiến sĩ, về nước cống hiến, mặc dù có cải thiện nhưng mức lương chưa bằng một người giúp việc. Một đề tài từ khi đề xuất đến khi phê duyệt triển khai đáng lẽ chỉ vài tháng đến 1 năm thôi, nhưng thủ tục vừa chậm vừa kéo dài, để 4 năm vẫn chưa được phê duyệt. Hoặc ví dụ có đề tài cần đến 10 tỷ để làm cho ra tấm ra món thì chỉ được cấp 3 tỷ.

Hoặc như áp lực khi đăng ký đề tài. Đề tài yêu cầu phải có sản phẩm như đăng ký. Nhưng với công nghệ cao khó, và không phải ai cũng làm được, nên ngay những giai đoạn đầu chưa chắc đã có thành công mong đợi. Nhưng thất bại là mẹ của thành công. Chính bản thân tôi cũng có những đề tài đã làm, đã chế tạo vật liệu mới và đã thử nghiệm và quả thực chưa được thành công như mong muốn, nhưng không dám đăng ký đề tài, bởi áp lực.

Luật cũng có khuyến khích rủi ro đầu tư, nghị định cũng đã có chế tài xử lý đề tài không hoàn thành, nhưng chưa sát với thực tiễn. Không hoàn thành đề tài luôn được đánh giá, xem là không hoàn thành nhiệm vụ, mà chưa tính đến những đầu tư cho nghiên cứu có tính tìm tòi khai phá, rủi ro cao, cần phải khích lệ để nhà khoa học dám dấn thân, mạnh dạn đổi mới sáng tạo.

Hoặc phê duyệt các định mức từ khi đăng ký đến khi triển khai thực hiện, mức chi vẫn thế, kinh phí hầu như không thay đổi, báo giá cần 3 báo giá và chọn giá rẻ nhất, do đó một số đề tài hầu như không thực hiện được, vậy thì làm sao KHCN phát triển được? Trong khi đó, nước ngoài họ chỉ cần báo giá và được phê duyệt, trả tiền luôn để thực hiện nghiên cứu. Họ đặt niềm tin vào nhà khoa học, và quan trọng là sự công khai, minh bạch, rõ ràng.

Giải pháp phải xứng tầm, tư duy phải thay đổi

Từ những thực tế như trên, cho thấy để thực hiện Nghị quyết 57, trước hết phải thay thể chế. Mà để thay đổi thể chế, chính sách, phải đổi nhận thức và tư duy. Lấy phát triển KHCN là cốt lõi, thì phải dành những điều kiện tốt nhất, nhanh nhất, ủng hộ cao nhất cho nhà khoa học và hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Sao lại để những nghị định, thông tư chồng chéo nhau, không thực tế và kìm nén sự phát triển của khoa học? Tổng Bí thư đã chỉ đạo rồi, phải từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, chuyển sang tư duy động viên, khuyến khích nhà khoa học, khuyến khích dấn thân vào khoa học, nghiên cứu những lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ lõi và đổi mới sáng tạo.

Theo tôi, đổi mới tư duy còn cần tạo điều kiện để mỗi nhà khoa học, mỗi cá nhân được “làm theo nhu cầu, hưởng theo năng lực”. Được hỗ trợ tối đa để phát huy hết nguồn năng lực, tri thức và tài năng và được đãi ngộ xứng đáng với những gì mà họ lao động và cống hiến.

Từ đó, giải pháp phải xứng tầm, tư duy phải thay đổi. Thể chế là vấn đề quan trọng nhất và trước hết cần phải thay đổi. Không đổi mới tư duy, không cải cách các quy trình, quy định, định mức mà cứ tủn mủn như hiện nay thì dù nguồn lực chúng ta có, nhưng cũng không thể đủ sức bật lên để phát huy được.

Ví như trong một gia đình, nếu người con cả có tiềm năng phát triển nhất thì phải ưu tiên tạo điều kiện tốt nhất cho người con cả phát triển, đầu tư học hành, đầu tư khởi nghiệp đến nơi đến chốn để thành tài, để từ đó gia đình, dòng họ phát triển. Sức ăn ba bát cơm mới đủ sức thì phải cho ăn đủ. Như truyền thuyết đã nói, cậu bé có ăn hết 3 thúng cơm, 3 vại cà mới thành vươn mình trở thành Thánh Gióng. Tóm lại có thực mới vực được đạo. Cần 3 thúng cơm mà chỉ cho ăn có 3 bát cơm thì cũng không thành Thánh Gióng được. Do đó nếu các chính sách không thay đổi để tới đây đầu tư tốt nhất, nhanh nhất, tới tầm và xứng tầm cho nhà khoa học, cho KHCN thì Nghị quyết 57 cũng khó mà thành công như mong đợi.

Nghị quyết 57 đòi hỏi các bộ ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và mỗi cá nhân phải thống nhất quan điểm dựa vào khoa học công nghệ – nhất là các công nghệ cao để xoay chuyển tình thế, tạo đòn bẩy chấn hưng đất nước. Nghị quyết 57 lần đầu tiên đã khẳng định nhà khoa học có vị trí then chốt, thực sự coi trọng vai trò của các nhà khoa học – chủ thể của các trí thức, công nghệ lõi.

Vì thế, giải pháp đặt ra rất đúng và trúng, là phải trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng nhà khoa học, đầu tư tới tầm, xứng tầm cho khoa học công nghệ. Ví dụ, đề tài nghiên cứu khoa học cần 10 tỷ, thì phải đầu tư tới tầm, cấp đủ 10 tỷ đồng. Còn “xứng tầm”, theo tôi hiểu, có thể, nếu đề tài đó tầm vóc vượt trội, như nước ngoài phải 100 tỷ mới làm được, mà nhà khoa học của ta đề xuất 10 tỷ, thì có thể mạnh dạn cấp tới 12 tỷ đồng để động viên khuyến khích nhà khoa học sáng tạo hơn nữa, làm tốt hơn thế.

Bên cạnh thể chế, thì nguồn lực, bao gồm cả yếu tố nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và tài chính; hạ tầng; dữ liệu; công nghệ cao là những nội dung trọng tâm của Nghị quyết, cần có kế hoạch và đầu tư để triển khai đồng bộ.

Trong nghiên cứu khoa học, có những vấn đề rất khó, có ý nghĩa chiến lược, hoặc có những công trình làm lợi rất lớn, có ảnh hưởng rất lớn, thì giá trị không thể đo đếm hết được ngay bằng tiền. Do đó, xứng tầm được hiểu không những cần tạo điều kiện tốt nhất mình có cho nhà khoa học, cho hoạt động KHCN, mà để khuyến khích, động viên nhà khoa học dấn thân, cần tham khảo đãi ngộ, chính sách của các nước để triển khai thực hiện cho xứng đáng.

Bên cạnh đó, một nhân tố rất quan trọng để triển khai Nghị quyết 57 là cần giải quyết thật hài hoà, thật tốt mối quan hệ giữa 4 nhà trong hoạt động KHCN: Nhà nước, nhà trường, nhà khoa học và doanh nghiệp để đầu tư, khai thác và phát huy nhanh nhất, tốt nhất giá trị những kết quả nghiên cứu khoa học. Lại quay trở lại, để làm được những đó thì phải thay đổi một loạt luật, nghị định, thông tư cho đồng bộ và phải làm rất nhanh.

Như vừa rồi, ngay sau khi có Nghị quyết 57, Chính phủ đã ban hành chương trình hành động, đồng thời đã ban hành Nghị định 179 về thu hút trọng dụng nhân tài, ban hành cơ chế thí điểm bổ nhiệm các giám đốc là người ngoài Đảng, là người nước ngoài trong doanh nghiệp nhà nước. Như vậy là bước đầu tư duy đã thay đổi, hành động cũng đã kịp thời, thể hiện được sự quyết liệt, “không nói suông” mà nói đi đôi với làm.

Minh bạch, chí công vô tư trong sử dụng người tài

Về vấn đề trọng dụng, sử dụng nhân tài, lâu nay vẫn là điểm yếu của chúng ta, thưa giáo sư. Giống như việc, nhà khoa học nhiều khi phải rất vất vả mới được phê duyệt đề tài, rồi vấn đề chứng minh hiệu quả tài chính cũng rất khó khăn. Quan trọng hơn, môi trường để các nhân tài thực sự cống hiến vẫn chưa được chú trọng, thậm chí có nơi còn không quan tâm?

Quay trở lại câu chuyện Viện Khoa học công nghệ tiên tiến ở Hàn Quốc (KIST) những năm ban đầu mới thành lập. Viện tuyển chọn trên toàn quốc những sinh viên, cá nhân ưu tú vào làm việc, và trả lương rất cao. Khi đó có một số các vị bộ trưởng, thượng nghị sĩ rất muốn con em họ vào làm việc tại viện, nhưng lãnh đạo viện không nhận, và có những người đã nói xấu lãnh đạo viện với Tổng thống Park Chung – hee.

Tổng thống gọi lãnh đạo viện đến và sau khi nghe lãnh đạo viện giải thích, Tổng thống đã hiểu vấn đề, thay vì khiển trách ông đã ủng hộ lãnh đạo viện mạnh mẽ. Ông hiểu rất rõ rằng muốn phát triển khoa học công nghệ thì cần phải có những con người ưu tú và trả lương tương xứng. Cuối những năm 60, kinh tế Hàn Quốc khó khăn lắm, Nhà nước vẫn cắt giảm kinh phí đầu tư hằng năm cho các cơ quan, tổ chức. Riêng viện KIST, Tổng thống chỉ đạo không được cắt. Không những thế, cứ 3 tháng tổng thống lại đến thăm viện một lần. Sự chỉ đạo sáng suốt, quyết liệt và sâu sát của Tổng thống Park Chung – hee có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành công của Hàn Quốc, từ một nước nghèo bứt phá thành một nước công nghiệp phát triển.

Ở Việt Nam, tôi cũng chứng kiến nhiều sinh viên, hiện tại đang làm ở các tập đoàn lớn của nước ngoài, lương rất cao. Có những bạn sau thời gian đi làm cho nước ngoài, ra khởi nghiệp riêng, giờ sở hữu những công ty giá trị cả trăm triệu USD, thậm chí có cựu sinh viên Trường ĐH Công nghệ của chúng tôi đã trở thành tỷ phú đô la.

Các bạn ấy không phải “con ông, cháu cha”, cũng không phải con đại gia, đều là xuất thân từ nông dân, từ gia đình lao động bình thường, thậm chí nhiều em còn ra đi từ những vùng quê nghèo, nhưng học giỏi, đam mê nghiên cứu, phát triển; có nền tảng KHCN và nhờ đó đã đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp rất thành công. Thế hệ trước trở thành tỷ phú nhờ kinh doanh, bất động sản; ngày nay thành tỷ phú nhờ KHCN. Như vậy thời thế đã thay đổi. Trước là “phi thương bất phú”, ngày nay, không có công nghệ cao, không nắm được công nghệ lõi thì không thành tỷ phú được.

Trọng dụng, thu hút nhân tài không chỉ là tuyển dụng, đãi ngộ, mà còn là môi trường công tác. Đó là sự minh bạch, chí công vô tư, sự quan tâm, tin tưởng, khích lệ. Tri thức từ nhà khoa học, từ các cơ sở khoa học. Do đó, trước hết các trường đại học, các viện nghiên cứu phải là tấm gương trong sử dụng trí thức, sử dụng con người.

Nói về câu chuyện trọng dụng nhân tài, một ví dụ về chuyện tuyển dụng tiến sĩ vào giảng dạy tại trường đại học. Theo quy định hiện tại, tuyển dụng là phải ra đề thi, rồi chấm thi. Ra đề thi cho chuyên viên tài chính, hoặc quản lý KHCN, quản lý đào tạo thì không thành vấn đề, nhưng ra đề thi để tuyển người đã có trình độ tiến sĩ làm giảng viên có phù hợp không? Để tuyển giảng viên có trình độ tiến sĩ, quan trọng nhất phải xem kết quả học tập, nghiên cứu, công bố, cả quá trình làm việc của ứng viên, rồi cho dạy thử, giảng thử và được hội đồng chuyên môn đánh giá. Vậy quy định tuyển một tiến sĩ làm giảng viên như tuyển một chuyên viên ở phòng chuyên môn như hiện nay có phù hợp? Rào cản chính là ở những quy định thiếu thực tiễn đó.

Không chỉ là tuyển dụng, mà với nhân tài, cần cơ chế lương đột phá. Lương, đãi ngộ không cao, không tương xứng thì khó mà thu hút được nhân tài. Quan trọng hơn, là lãnh đạo các đơn vị phải trân trọng người tài. Người tài thường có cá tính, không xun xoe, quỵ lụy, không thích nói nịnh. Nếu lãnh đạo còn tư duy dùng người quen, dùng người giỏi lấy lòng, thay vì giỏi chuyên môn, sử dụng không đúng người, đúng việc thì Nghị quyết 57 cũng không có ý nghĩa.

Đầu tư cho KHCN phải chấp nhận “có thắng, có thua”

Xa hơn, ít người để ý tới, đó là phải quy hoạch đội ngũ nhà khoa học. Chúng ta hiện nay mới quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý. Cán bộ quản lý có thể luân chuyển, dễ thay thế, nhưng với các giáo sư, nhà khoa học đầu ngành, nếu họ già đi, mất đi, phải mất nhiều năm mới có một người đủ tầm như vậy thay thế, bù đắp. Vì thế, Nhà nước, nhà trường, các viện nghiên cứu phải có “chiến lược” bồi dưỡng những nhà khoa học thế hệ kế cận, tạo điều kiện để họ phát triển, tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học ở nước ngoài, tiếp xúc với những giáo sư đầu ngành của thế giới để trau dồi, học hỏi kinh nghiệm, trở thành thế hệ những người kế cận xứng đáng.

Với các giáo sư hàng đầu của thế giới, cũng không dễ thu hút tiếp cận. Nhiều khi phải đã quen, đã biết, nhưng thu hút để trở thành đồng nghiệp trong nhóm nghiên cứu, đồng hành để phát triển phải mất vài năm, thậm chí cần nhiều thời gian hơn thế. Với những giáo sư hàng đầu, có khi chỉ cần thông qua cuộc gặp, cũng đã mở mang ra rất nhiều. Do đó, để thu hút chuyên gia, nhà khoa học giỏi, cần có những cơ chế đặc biệt, nguồn lực đặc biệt để thu hút. Một giáo sư rất giỏi, để thu hút về nước làm việc, có thể phải trả lương cao gấp nhiều lần quy định thông thường. Một giáo sư rất xuất sắc, tài năng, cũng cần có cơ chế đãi ngộ cao hơn các giáo sư bình thường. Như thế mới có thể tiếp cận được nhân tài, thu hút và sử dụng, phát huy được nhân tài, từ đó mới có thể tiếp nhận cũng như thúc đẩy nhanh tiến bộ KHCN.

Cơ chế chuyển giao, mua công nghệ cũng vậy. Có những công nghệ cũng cần “cơ chế đặc biệt” mới mua được. Hơn nữa công nghệ cao, công nghệ lõi nhiều khi cũng rất khó có thể định giá, nhiều khi là “vô giá”. Nhiều khi thay vì mua công nghệ, hoặc không thể mua được công nghệ, chúng ta phải thu hút chuyên gia, thu hút con người. Do đó, đội ngũ quản lý khoa học công nghệ, các bộ ngành liên quan cũng cần phải thấu hiểu và đồng hành, có như vậy, mới có những tiến bộ nhanh về công nghệ, tức là có những cơ chế để thực hiện “vừa xếp hàng, vừa chạy” như Tổng Bí thư từng phát biểu.

Rồi vấn đề bổ nhiệm cán bộ, có những nhà khoa học ưu tú nhưng không là đảng viên, hoặc chưa là đảng viên, vậy có thể bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo khoa học được không? Theo tôi nhà khoa học làm chuyên môn, nhưng yêu nước, muốn cống hiến cho quê hương, đất nước, nhưng không ở trong đội ngũ của Đảng thì cũng cần tạo điều kiện để họ cống hiến, phải có cơ chế để thu hút và trọng dụng vì sự nghiệp chung.

Rồi vấn đề rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Đầu tư cho rủi ro là đầu tư cho những công nghệ khó, công nghệ mới, là đầu tư cho tương lai, như Tổng Bí thư nói quan điểm phải chấp nhận “có thắng, có thua”. Có quan niệm và tư duy như thế mới động viên, khuyến khích và giảm áp lực cho các nhà khoa học để nhà khoa học mạnh dạn nghiên cứu và dấn thân cho khoa học, từ đó mới mong có những đổi mới sáng tạo, đẻ ra những ý tưởng mới, công nghệ mới, sản phẩm mới.

KHCN là sự nghiệp của toàn dân, cần phát huy sức mạnh và trí tuệ của toàn dân tộc, của người Việt Nam ở trong và cả ngoài nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tinh thần này cũng đã được nêu trong Nghị quyết 57, trong bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư về việc thí điểm mời chuyên gia ngoài Đảng, hoặc là người nước ngoài tài năng, am hiểu văn hóa Việt Nam về làm lãnh đạo một số viện, trường đại học, doanh nghiệp.

Nghị quyết 57 đề ra chủ trương và giải pháp rất đúng, rất trúng, trên quan điểm phải tạo điều kiện cao nhất, tốt nhất, khuyến khích phát triển KHCN để làm sao sớm sản sinh ra những công nghệ cao, sớm đạt được thành tựu. Tư duy, quan điểm đã thay đổi hoàn toàn so với trước đây. Tuy nhiên, nghị quyết nêu như thế, nhưng nếu những người làm luật, xây dựng các nghị định để thực hiện nghị quyết mà vẫn không thay đổi, vẫn giữ tư duy cũ thì lại dậm chân tại chỗ.

Những năm qua đất nước mình có nhiều thành tựu, nhưng cũng đã bỏ lỡ nhiều cơ hội rồi, trong bối cảnh CMCN 4.0 phát triển như vũ bão như hiện nay mà lại để lỡ lần nữa, thì đất nước ta sẽ bị tụt hậu, chúng ta có tội với Tổ quốc, với Nhân dân. Do đó, thực hiện thành công Nghị quyết 57 để lấy KHCN, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đòn bẩy đưa đất nước ta vươn mình lên thành quốc gia giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên tới vừa là hoài bão và mong mỏi của toàn Đảng, toàn dân, nhưng cũng phải là sự quyết tâm, quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị, các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và mỗi cá nhân, từng nhà khoa học, từng bạn trẻ.

Tất cả phải ưu tiên cao nhất, tốt nhất cho nhà khoa học, để sớm có sản phẩm công nghệ cao, như bài học từ Hàn Quốc và một số nước khác.

Về hạ tầng, phải sớm hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại hóa để thực hiện chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Có một số điều kiện nhất định về hạ tầng và cơ sở vật chất, dữ liệu phải đầu tư trước, phải đi trước.

Giới trí thức, các nhà khoa học vui mừng và phấn khởi khi Tổng Bí thư – lãnh đạo cao nhất của Đảng làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Toàn dân thấy được sự quyết liệt của Đảng và Nhà nước, và tin tưởng vào sự thành công của Nghị quyết 57.

Với sự ra đời của Nghị quyết 57, tôi thấy chưa bao giờ chúng ta đánh giá cao vai trò của KHCN như hiện nay. Cũng chưa bao giờ nhà khoa học được định vị đúng vai trò và đánh giá cao như hiện nay. Nghị quyết đã đúng, đã trúng rồi, xác định đúng giải pháp rồi. Việc cần làm là phải hành động quyết liệt, nhanh chóng, không để lỡ cơ hội. Các trường đại học, viện nghiên cứu cũng phải nhanh chóng xây dựng, điều chỉnh lại chiến lược phát triển phù hợp với định hướng và chỉ đạo của Nghị quyết 57 và sớm có kế hoạch triển khai thực hiện, gắn với các chỉ tiêu cụ thể.

Các trường đại học không thay đổi thì giáo dục đại học không thay đổi và cất cánh được. Giáo dục đại học không cất cánh thì KHCN không phát triển, đất nước cũng không thể phát triển được như kỳ vọng. Việc đầu tư cho các trường đại học, các viện nghiên cứu trong thời gian tới cũng phải xứng tầm. Tự chủ đại học – khoán 10 trong giáo dục cũng phải được hoàn thiện và đẩy mạnh để các trường đại học Việt Nam có động lực phát triển đột phá.

Cán bộ lãnh đạo các viện, các trường cũng phải chọn đúng người, có tâm và có tầm, có thực tài, quan tâm thu hút nhân tài về làm việc. Quan trọng nhất, phải thực sự công tâm, lắng nghe, quý trọng nhân tài, tạo điều kiện tốt nhất để họ làm việc, cống hiến.

Xin trân trọng cảm ơn giáo sư!

Trường Phong (thực hiện)

GS Nguyễn Đình Đức: Phải dám đầu tư cho công nghệ cao, dám chấp nhận thất bại

heo Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức, phải mạnh dạn thí điểm những phương thức, cách làm mới để “vừa xếp hàng, vừa chạy,” nhanh chóng nắm bắt được các cơ hội, phát triển các công nghệ cao.

Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi Số Quốc gia.

Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ-Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời là nhà khoa học Việt Nam nằm trong Top 100 các nhà khoa học hàng đầu thế giới lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ đã dành thời gian trao đổi với phóng viên để làm rõ hơn về tầm nhìn, ý nghĩa của Nghị quyết 57-NQ/TW đối với sự phát triển của đất nước nói chung và các trường đại học nói riêng.

Công nghệ cao là chìa khóa để quốc gia hưng thịnh

– Thưa Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức, ông đánh giá như thế nào về việc ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW trong thời điểm này?

Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức: Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị vừa ban hành thể hiện quyết tâm, quyết liệt của Trung ương lấy chuyển đổi số và công nghệ cao là trọng tâm để bứt phá và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Bài học của các nước, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia phát triển khác đã cho thấy công nghệ cao là chìa khóa để quốc gia hưng thịnh và giàu mạnh.

Việt Nam cũng không còn con đường nào khác. Chưa bao giờ những thành tựu khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo tác động đến mọi hoạt động của đời sống xã hội và toàn cầu nhanh, mạnh mẽ như hiện nay. Do đó, lấy chuyển đổi số làm nền tảng và làm chủ các công nghệ cao là chiến lược phát triển hoàn toàn đúng đắn. Nền tảng chuyển đổi số và các công nghệ cao, công nghệ lõi chính là chiếc đũa thần để dân tộc ta có thể vươn lên tiến nhanh, tiến mạnh, vững chắc, trở thành quốc gia giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các nước năm châu.

Nghị quyết 57 cũng là mục tiêu, khát vọng của dân tộc, mong mỏi của nhân dân, của các nhà khoa học-đặc biệt là các nhà khoa học trẻ. Nghị quyết thôi thúc cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu phải đổi mới tư duy, nắm bắt cơ hội, đồng thời phải kiến tạo, đầu tư mọi nguồn lực tốt nhất cho khoa học công nghệ, cho các nhà khoa học để thúc đẩy chuyển đổi số và làm chủ các công nghệ cao, phát triển các công nghệ mới.

Nghị quyết 57 thực sự là luồng gió mới, soi rõ con đường vươn lên phía trước của dân tộc Việt Nam, quá đúng và quá trúng. Từ Nghị quyết này có thể thấy rõ con đường phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới. Định hướng chủ đạo phát triển đất nước trong Đại hội tới của Đảng cũng đã rõ.

– Một trong những mục tiêu được đề ra trong Nghị quyết 57 là đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40-50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm… Theo Giáo sư, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp như thế nào để có thể đạt được mục tiêu này?

Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức: Chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận trước đây đã ban hành nhiều nghị quyết rất đúng và trúng trong lĩnh vực khoa học công nghệ, nhưng trên thực tế triển khai, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng còn rất nhiều hạn chế, tồn tại, chủ yếu do chồng chéo của các văn bản, quy định. Việc tổ chức phê duyệt và triển khai các nghiên cứu còn chậm, thủ tục rườm rà và đầu tư chưa xứng tầm. Điều này cũng bởi tư duy, nhận thức chưa thực sự hiểu đúng vai trò của khoa học công nghệ và nguồn nhân lực trình độ cao với sự phát triển của đất nước.

Để thực hiện thành công các mục tiêu của Nghị quyết 57, các bộ, ngành, các viện nghiên cứu, trường đại học và toàn xã hội phải thay đổi nhận thức để đầu tư mọi nguồn lực nhanh nhất, tốt nhất cho khoa học công nghệ, cho các trường đại học, viện nghiên cứu.

Trên cơ sở Nghị quyết này, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Giáo dục đại học và các bộ luật khác sẽ phải thay đổi trên cơ sở nhận thức, tư duy và tầm nhìn như vậy. Các chính sách cần kiến tạo, đầu tư xứng tầm cho nghiên cứu, phát triển, đẩy mạnh quá trình từ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm tới các sản phẩm công nghệ cao.

Trải nghiệm robot Anbi tại Ngày hội ‘Thanh niên Bắc Giang-Đổi mới sáng tạo thời đại số.’ (Ảnh: Đồng Thúy/TTXVN)

Mấu chốt để triển khai các hoạt động thực hiện Nghị quyết 57, đầu tiên và cốt lõi, suy cho cùng chính là thể chế, chính sách và nguồn nhân lực. Các bộ, ngành phải có trách nhiệm xây dựng thể chế thông thoáng và kịp thời để sự nghiệp chuyển đổi số và khoa học công nghệ của quốc gia tiến nhanh, tiến mạnh, không “lề dề” như những lần trước.

Để đạt được mục tiêu phát triển các công nghệ cao, chúng ta phải có nhân tài. Trong bối cảnh hiện nay, tài nguyên lớn nhất của quốc gia, sức cạnh tranh lớn nhất của tổ chức và doanh nghiệp chính là nguồn lực con người. Vì vậy, việc đầu tư cho phát triển giáo dục đại học và nhân lực khoa học công nghệ, chính sách thu hút nhân tài phải sớm triển khai nhanh, quyết liệt.

Đồng thời, Việt Nam có thể đi sau nhưng phải quyết tâm về trước, không thể tụt hậu. Phải mạnh dạn thí điểm những phương thức mới, cách làm mới để “vừa xếp hàng, vừa chạy,” nhanh chóng nắm bắt được các cơ hội, phát triển các công nghệ cao.

Bên cạnh đó, phải mạnh dạn đầu tư cho các nghiên cứu rủi ro. Trước đây, Việt Nam mới chỉ quan tâm chú ý xử lý các rủi ro trong quá trình triển khai các hoạt động khoa học công nghệ. Các công nghệ cao là khó, giá trị thặng dự cao nhưng quả thực không dễ dàng. Không phải nghiên cứu đỉnh cao nào cũng thành công, nhưng nếu thành công thì sức bật phá kinh khủng. Vì vậy, phải dám đầu tư cho công nghệ cao, dám chấp nhận thất bại để có những thành công khác.

Đầu tư dài hạn, xứng tầm cho các nhóm nghiên cứu mạnh

– Về phía các cơ sở đào tạo, theo Giáo sư, trong thời gian tới, các trường cần làm gì để bắt kịp xu hướng của thế giới trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao lĩnh vực khoa học-công nghệ nhằm thu hút sinh viên theo học và nâng cao chất lượng đầu ra?

Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức: Các công nghệ cao xuất phát điểm sẽ từ phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu, từ trí tuệ của các nhà khoa học. Để nắm bắt và phát triển công nghệ cao, các nhà khoa học, các trường đại học, các viện nghiên cứu của hệ thống giáo dục đại học giữ vai trò nòng cốt. Giáo dục đại học Việt Nam có cất cánh, đất nước mới cất cánh được.

Nghị quyết 57 là kim chỉ nam cho hoạt động của các trường đại học, viện nghiên cứu. Các cơ sở giáo dục đại học phải nhanh chóng điều chỉnh chiến lược phát triển của mình phù hợp với chiến lược và chính sách phát triển của quốc gia, theo những nội dung và mục tiêu mà Nghị quyết 57 đã đề ra.

Các học viên được đào tạo tại Trung tâm Đào tạo Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: TTXVN phát)

Các trường đại học phải tiên phong trong việc chuyển đổi số. Hệ thống công nghệ, hạ tầng và dữ liệu, ứng dụng AI trong trường đại học phải được đầu tư, xây dựng và vận hành chuẩn chỉnh và là hình mẫu cho việc chuyển đổi số của quốc gia.

Đồng thời, phải chuyển đổi các chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận giáo dục STEM. Các công nghệ cao, công nghệ lõi cũng đòi hỏi phải có nền tảng khoa học cơ bản vững chắc. Không có thế mạnh về khoa học cơ bản và không đẩy mạnh STEM trong giáo dục đại học, chúng ta không bao giờ có nguồn nhân lực công nghệ cao được. Chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo phải tiếp cận với các khung năng lực, chuẩn đầu ra của khu vực và quốc tế.

Bên cạnh đó, các trường đại học phải mạnh dạn đầu tư xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh. Vì nhóm nghiên cứu là tế bào của hoạt động nghiên cứu, đào tạo và đổi mới sáng tạo trong nhà trường.

Nhà nước và nhà trường cần có chủ trương và quyết tâm thành lập mới, ưu tiên đầu tư xây dựng các nhóm nghiên cứu mới trong những lĩnh vực công nghệ cao, mũi nhọn và then chốt trong phát triển kinh tế, an ninh quốc gia. Các trường đại học, viện nghiên cứu là nơi tập trung các nhà khoa học có trình độ cao nên là môi trường khả thi nhất để mạnh dạn đầu tư cho các nghiên cứu rủi ro.

Hơn nữa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trong trường đại học phải là đầu tư dài hơi, tới tầm và xứng tầm, song song với việc quy hoạch và đầu tư cho các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn. Có như vậy mới mong đẩy mạnh chất lượng nghiên cứu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong khoa học công nghệ và tạo nên các đột phá trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của các trường đại học.

Các trường đại học cần đẩy mạnh triển khai mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, nhà khoa học và doanh nghiệp. Nhà nước và nhà trường cần xây dựng cơ chế để thúc đẩy hợp tác và chia sẻ nguồn lực, cũng như quyền lợi thỏa đáng và chính đáng của các bên tham gia. Có như vậy mới mong thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu và hoạt động đổi mới sáng tạo của nhà trường.

Phòng nghiên cứu công nghệ nano hiện đại của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: TTXVN phát)

Tinh thần của Nghị quyết mà tôi nhận thức được là để đất nước giàu mạnh, hùng cường, mỗi cá nhân, tổ chức còn phải có khát vọng làm việc và cống hiến. Muốn được “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu,” hiện tại, mỗi người phải được “làm theo nhu cầu, hưởng theo năng lực.”

Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và tổ chức các cấp, các trường đại học, các viện nghiên cứu phải tạo điều kiện và nguồn lực để từng cá nhân, từng nhà khoa học có mong muốn được làm việc, được cống hiến thì phải có điều kiện và được tạo điều kiện để làm việc, nghiên cứu sáng tạo, cống hiến hết mình, được hưởng xứng đáng với năng lực của họ. Có như vậy, cá nhân mới phát triển, tạo nên các giá trị mới gia tăng cho tổ chức và như vậy, nhà trường mới phát triển, tổ chức mới phát triển, quốc gia mới hưng thịnh.

– Là một trong những cơ sở đại học hàng đầu cả nước về đào tạo các ngành khoa học công nghệ, Trường Đại học Công nghệ-Đại học Quốc gia Hà Nội đã và đang có những bước chuẩn bị như thế nào để đẩy mạnh quy mô và chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế thời gian tới, thưa Giáo sư?

Giáo sư-Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức: Trường Đại học Công nghệ đã ban hành Chiến lược phát triển nhà trường đến năm 2035 và tầm nhìn tới 2045. Chúng tôi đã mạnh dạn đề ra mục tiêu một số lĩnh vực lọt top 200 thế giới vào năm 2035 và trở thành một trong những trường đại học kỹ thuật công nghệ hàng đầu của đất nước; đại học tiên tiến, có uy tín cao của khu vực.

Song song với xây dựng Chiến lược mới, nhà trường đã đổi mới quản trị đại học, đổi mới quản lý tài chính. Trường Đại học Công nghệ đã tự chủ. nhờ đó đã tăng mạnh đầu tư cho con người, cho các nhóm nghiên cứu của giảng viên, sinh viên và cho chuyển đổi số, quản trị trong trường.

Trường Đại học Công nghệ đã triển khai toàn diện hệ thống Base trong hoạt động điều hành và áp dụng triệt để phần mềm Canvas trong đào tạo. Nhờ đó đã thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển đổi số trong nhà trường và đặc biệt là nâng cao chất lượng đào tạo.

Nhà trường cũng có truyền thống kết hợp với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn đồng hành trong đào tạo. Việc tuyển chọn nhân tài để đào tạo thạc sỹ trong thiết kế chip với tập đoàn Sumsung là một ví dụ điển hình. Nhiều sinh viên của chúng tôi ngay sau khi tốt nghiệp đã có những doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước săn đón, tuyển dụng.

Chúng tôi cũng đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tất cả các lĩnh vực của nhà trường. Bên cạnh các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, tự động hóa-robotics, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nông nghiệp, năng lượng, hàng không vũ trụ, xây dựng-giao thông và phát triển hạ tầng thông minh…, các lĩnh vực mới như công nghệ-kỹ thuật sinh học, vật liệu điện-điện tử… đang được xây dựng mới, sẽ tạo nên những bước phát triển mới cho Trường Đại học Công nghệ và Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm học 2023-2024, Trường Đại học Công nghệ đã có những bước phát triển và bứt phá ngoạn mục. Tỷ lệ công bố quốc tế đạt 2,28 bài ISI/TS trong năm 2024, tương đương như của các trường đại học nghiên cứu tiên tiến trên thế giới. Điểm tuyển sinh đầu vào thuộc diện một trong những trường top đầu, có điểm đầu vào cao nhất cả nước và hiện nay quy mô tuyển sinh của trường là lớn nhất trong Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thầy trò rất vui, tự hào và tự nhủ phải nỗ lực và phấn đấu hết mình, vì Nghị quyết 57 mở ra nhiều cơ hội, vận hội mới cho nhà trường, làm cho Trường Đại học Công nghệ có một tâm thế mới, vị thế mới trong Đại học Quốc gia Hà Nội và hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

Nghị quyết 57 – NQ/TW là động lực để các nhà khoa học, các bạn trẻ cống hiến, dấn thân đổi mới sáng tạo

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ban hành quá đúng, quá trúng và kịp thời. Quyết tâm của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị thực sự là động lực để các nhà khoa học và các bạn trẻ làm việc, cống hiến và dám dấn thân để tiếp tục hội nhập, mạnh dạn đổi mới sáng tạo, tiến lên phía trước.

Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc.


Báo Đại biểu Nhân dân đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức Đại học Quốc gia Hà Nội về Nghị quyết số 57-NQ/TW đã ảnh hưởng như thế nào tới công cuộc đổi mới của đất nước.

Chiếc đũa thần để dân tộc vươn lên tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc

– Thưa GS Nguyễn Đình Đức, Trung ương vừa ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, GS đánh giá như thế nào về Nghị Quyết này?

GS Nguyễn Đình Đức: Từ bài học của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, và nhiều quốc gia phát triển khác đã cho thấy khoa học công nghệ (KHCN) là chìa khóa để quốc gia hưng thịnh và giàu mạnh. Và Việt Nam cũng không còn con đường nào khác, làm chủ các công nghệ cao, các công nghệ lõi chính là chiếc đũa thần để dân tộc ta có thể vươn lên tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc, trở thành quốc gia giàu mạnh hùng cường, ngẩng cao đầu và sánh vai với các nước năm châu.

Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của Bộ Chính trị vừa ban hành thực sự là luồng gió mới, soi rõ con đường vươn lên phía trước của dân tộc Việt Nam. Quá đúng và quá trúng. Từ Nghị quyết này có thể thấy đã rõ con đường phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới. Định hướng chủ đạo phát triển đất nước của Đại hội tới của Đảng, cũng đã rõ.

Nghị quyết lần này sâu sắc, ngắn gọn, nhưng quyết liệt và có tầm, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn tới. Khác hẳn các Nghị quyết khác.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức Đại học Quốc gia Hà Nội

Đầu tư cho công nghệ cao phải nhanh và xứng tầm

– Vậy đâu là những điểm mới trọng tâm của Nghị quyết 57 – NQ/TW, thưa GS?

GS Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, Nghị quyết lần này nhấn mạnh vào chuyển đổi số và các công nghệ cao. Đây là những giá trị cốt lõi chúng ta phải làm bằng được, làm chủ và vươn tới.

Thứ hai, một số lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số,…Việt Nam phải nhanh chóng vươn lên trong nhóm những quốc gia top đầu của khu vực và quốc tế, không thể tụt lại phía sau.

Việt Nam phải trở thành điểm sáng của khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, năng lực cạnh tranh số, Chính phủ điện tử và trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số. Phải có những doanh nghiệp công nghệ ngang tầm quốc tế.

Thứ ba, thu hút nhân tài, mạnh dạn thí điểm những phương thức mới, cách làm mới; các bộ ngành phải có trách nhiệm xây dựng thể chế thông thoáng và kịp thời để sự nghiệp chuyển đổi số và KHCN của Quốc gia tiến nhanh, tiến mạnh, không lề dề như những lần trước. Thể chế, nhân lực, hạ tầng và dữ liệu là những nội dung trọng tâm cốt lõi.

Không chỉ vậy, với tầm nhìn xa rộng, Nghị quyết 57 – NQ/TW còn nhấn mạnh phải mạnh dạn đầu tư cho các nghiên cứu rủi ro. Quá đúng và kịp thời vì trước đây mới chỉ quan tâm chú ý xử lý các rủi ro. Các công nghệ cao là khó, giá trị thặng dư cao, nhưng quả thực không dễ dàng. Không phải nghiên cứu đỉnh cao nào cũng thành công, nhưng nếu thành công thì sức bật phá khủng khiếp. Vì vậy, đầu tư cho công nghệ cao phải nhanh và xứng tầm, tới tầm. Đây là một trong những điểm mới quan trọng và rất quyết liệt của Nghị quyết.

Tinh thần của Nghị quyết mà tôi nhận thức được là để đất nước giàu mạnh, hùng cường, mỗi cá nhân, tổ chức còn phải có khát vọng làm việc và cống hiến. Muốn được “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” thì hiện tại mỗi chúng ta phải được “làm theo nhu cầu, hưởng theo năng lực”. Các bộ ngành, cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và tổ chức các cấp phải tạo điều kiện để từng cá nhân có mong muốn được làm việc, được cống hiến thì phải có điều kiện và được tạo điều kiện để làm việc và cống hiến hết mình, và được hưởng xứng đáng với năng lực của họ.

Hệ thống giáo dục đại học giữ vai trò nòng cột

– Giáo sư đánh giá vai trò của các cơ sở giáo dục đại học như thế nào trong thời cơ và thách thức khi triển khai Nghị quyết 57 -NQ/TW? Để triển khai thực hiện, các bộ ngành và các Viện nghiên cứu, trường đại học cần làm gì thưa GS?

GS Nguyễn Đình Đức: Nghị quyết 57 – NQ/TW vừa ban hành lấy chuyển đổi số và công nghệ cao làm mũi nhọn phát triển và chấn hưng đất nước. Các nhà khoa học, các trường đại học, các viện nghiên cứu của hệ thống giáo dục đại học giữ vai trò nòng cột, vì vậy giáo dục đại học Việt Nam có cất cánh, đất nước mới cất cánh được. Cách tiếp cận và tư duy của các bộ ngành, các viện nghiên cứu, trường đại học và toàn xã hội phải quyết liệt và mạnh mẽ như vậy, với tư duy mới, tầm nhìn mới để xây dựng Luật Giáo dục đại học, Luật KHCN và các thể chế chính sách mới. Có như vậy mới mong có những cải cách đột phá trong quá trình triển khai thực hiện.

Nghị quyết 57 – NQ/TW vừa là quyết tâm của Đảng, nhưng cũng thể hiện khát vọng của dân tộc, mong mỏi của nhân dân, các nhà khoa học – đặc biệt là các nhà khoa học trẻ; thôi thúc cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, các cơ sở giáo dục đại học đổi mới, với tư duy kiến tạo, phải tạo động lực và cơ hội cho mỗi tổ chức, mỗi cá nhân nắm bắt nhanh cơ hội, mọi nguồn lực, không để sáng kiến nào bị bỏ sót, không để nhân tài nào bị lãng quên. Tất cả vì đất nước phát triển, quốc gia hưng thịnh, tiến nhanh, mạnh, vững chắc và bền vững.

Nghị quyết này sẽ đi vào lịch sử, và rất kịp thời, đúng thời điểm khi cả dân tộc bước vào kỷ nguyên mới. Là kim chỉ nam, định hướng cho chiến lược phát triển của các Đại học, trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu mạnh trong thời gian tới.

Và rất tuyệt vời là đích thân đồng chí Tổng Bí thư – người lãnh đạo cao nhất làm Tổng tư lệnh, làm Trưởng Ban chỉ đạo phát triển KHCN và chuyển đổi số quốc gia. Điều này thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt, quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước, mặt khác, đồng chí Tổng Bí thư là con người có tầm nhìn, quyết liệt, ngắn gọn súc tích, nói ít làm nhiều, “thực chiến” – khiến cho tôi và đội ngũ các nhà khoa học rất phấn khởi, tuyệt đối tin tưởng vào sự thành công.

– Giáo sư kỳ vọng gì ở KHCN Việt Nam trong năm 2025, đâu là từ khóa cho KHCN trong năm 2025 thưa Giáo sư?

GS Nguyễn Đình Đức: Nghị quyết 57 – NQ/TW ban hành quá đúng, quá trúng và kịp thời. Quyết tâm của đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị thực sự là động lực để chúng tôi và các bạn trẻ làm việc, cống hiến và dám dấn thân để tiếp tục hội nhập, mạnh dạn đổi mới sáng tạo, tiến lên phía trước.

Năm 2025 là năm khởi đầu cho kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cất cánh và vươn mình tới giàu mạnh phồn minh, tới những công nghệ cao, cốt lõi mà người Việt Nam mình sẽ làm chủ. Vì vậy, từ khóa cho năm 2025 sẽ là Chuyển đổi số; AI (trí tuệ nhân tạo); Công nghệ cao; Tự chủ và Bứt phá.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư !

Hồng Hạnh

Nghị quyết 57-NQ/TW thể hiện khát vọng quyết tâm vươn lên của dân tộc Việt Nam

Q/TW do Bộ chính trị ban hành nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu, chuyên gia Giáo dục Nghị quyết như kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường dẫn lỗi cho sự phát triển của Khoa học công nghệ nước nhà.

Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của BCT vừa ban hành ngày 22 tháng 12 năm 2024 có nhiều điểm mới, tạo cơ chế, động lực cho các hoạt động nghiên cứu khoa học có tính đột phá nhằm đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên vươn mình trong đó Khoa học công nghệ là nền tảng là nội lực đưa đất nước Việt Nam lên tầm cao mới. GSTSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN có bài trả lời phỏng vấn VOV2 về Nghị quyết 57-NQ/TW.

Thưa GS Nguyễn Đình Đức, NQ 57 của BCT về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có những điểm gì mới mang tính đột phá giúp các nhà KH phát huy tối đa năng lực nội lực để đưa đất nước phát triển ở tầm cao mới?

GS TSKH Nguyễn Đình Đức: Trước hết, tôi thấy Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của BCT vừa ban hành thực sự là luồng gió mới, soi rọi con đường vươn lên phía trước của dân tộc Việt Nam: Chỉ có đi vào các công nghệ cao, chuyển đổi số mạnh mẽ, Việt Nam mới có thể tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc để giàu mạnh hùng cường, ngẩng cao đầu và sánh vai với các nước năm châu.

Con đường đi lên từ KHCN của Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, và nhiều quốc gia phát triển khác đã chứng minh điều đó và Việt Nam cũng không còn con đường nào khác. Quá đúng và quá trúng. Từ Nghị quyết này có thể thấy con đường phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới, định hướng chủ đạo của Đại hội mới của Đảng nhiệm kỳ tới rất rõ ràng.

Hai là, Nghị quyết khuyến khích mạnh dạn, có những cơ chế thí điểm, đặc thù để thu hút nhân tài và đẩy nhanh đổi mới sáng tạo quốc gia.

Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia thể hiện quyết tâm của toàn Đảng toàn dân đặc biệt là trách nhiệm của mỗi tập thể cá nhân cần có khát vọng và quyết tâm cống hiến vì một Việt Nam hùng cường như thế nào thưa GS?

GS TSKH Nguyễn Đình Đức: Nghị quyết thể hiện được khát vọng vươn lên của dân tộc. Tinh thần của Nghị quyết là để đất nước giàu mạnh, hùng cường, mỗi cá nhân, tổ chức phải có khát vọng làm việc và cống hiến. Các bộ ngành, cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và tổ chức các cấp phải tạo điều kiện để từng cá nhân có mong muốn được làm việc, được cống hiến thì phải được tạo điều kiện để làm việc và cống hiến hết mình, và được hưởng lợi ích xứng đáng với năng lực của họ. Do đó phải xây dựng được thể chế thông thoáng, kiến tạo để khơi dậy tiềm lực của từng cá nhân, tổ chức, có như vậy, đất nước mới tiến lên được.

Không chỉ vậy, với tầm nhìn xa rộng, Nghị quyết còn nhấn mạnh phải mạnh dạn đầu tư cho các nghiên cứu rủi ro. Điều này quá đúng vì công nghệ cao là vấn đề khó, giá trị thặng dự cao, nhưng quá trình triển khai nghiên cứu, thử nghiệm quả thực không dễ dàng. Không phải nghiên cứu đỉnh cao nào cũng thành công, nhưng nếu thành công thì sức bật phá rất kinh khủng. Vì vậy, đầu tư cho công nghệ cao phải nhanh và xứng tầm, tới tầm. Đây là điểm mới và rất quyết liệt của Nghị quyết.

Nghị quyết này sẽ đi vào lịch sử, là kim chỉ nam cho toàn bộ hệ thống chính trị, các bộ ngành, đặc biệt là định hướng chiến lược choa các Đại học, trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu mạnh và quyết tâm của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời gian tới.

Nghị quyết cũng chỉ rõ các cơ quan của Chính phủ phải khẩn trương hoàn thiện thể chế để Nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất, hiệu quả nhất, không lề dề như những lần trước, mất hết cơ hội.

Nghị quyết lần này sâu sắc, ngắn gọn, nhưng quyết liệt và có tầm, quá quan trọng với sự phát triển của đất nước.

Việc đồng chí Tổng Bí thư Ban chấp hành TƯ Đảng trực tiếp làm trưởng ban chỉ đạo thực hiện NQ 57 có ý nghĩa thế nào thưa GS?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là điều thật tuyệt vời. Đích thân đồng chí TBT – người lãnh đạo cao nhất làm Tổng tư lệnh, làm Trưởng Ban chỉ đạo phát triển KHCN và chuyển đổi số quốc gia thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt, quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước, mặt khác, đồng chí TBT là con người có tầm nhìn, quyết liệt, ngắn gọn, súc tích, nói ít làm nhiều, “thực chiến” như thế này, làm Tư lệnh thì cá nhân tôi và đội ngũ các nhà khoa học tuyệt đối tin tưởng mục tiêu chúng ta đặt ra chắc chắn thành công.

Nghị quyết 57 ban hành quá đúng, quá trúng và kịp thời. Quyết tâm của đồng chí TBT và Bộ Chính trị thực sự là động lực để các nhà khoa học như chúng tôi và các bạn trẻ làm việc, cống hiến và dám dấn thân để tiếp tục hội nhập và tiến lên phía trước vì mục tiêu một Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh .

Xin trân trọng cảm ơn GSTSKH Nguyễn Đình Đức !

TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM GẶP MẶT VÀ TRI ÂN CÁC NHÀ GIÁO NHÂN NGÀY 20-11

Sáng ngày 18/11/2024 Tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Tổng bí thư Tô Lâm gặp mặt đại diện các nhà giáo, các nhà quản lý giáo dục của ngành giáo dục toàn quốc nhân ngày 20.11. Đây là vinh dự, là sự động viên to lớn với ngành giáo dục Việt Nam, với đội ngũ các thầy cô giáo.

Tổng bí thư đã đánh giá cao và ghi nhận những nỗ lực của ngành Giáo dục và những cống hiến của đội ngũ nhà giáo Việt Nam trong sự nghiệp trồng người, trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực kiến thiết đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng bí thư Tô Lâm đã tặng hoa tri ân 10 thầy cô đại diện toàn thể các thầy cô giáo trong cả nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vinh dự là 1 trong 10 nhà giáo đại diện cho toàn thể các thầy cô giáo trong cả nước nhận bó hoa tươi thắm, tri ân từ người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà Nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (đứng thứ ba, bên phải ảnh) vinh dự là 1 trong 10 nhà giáo đại diện cho toàn thể các thầy cô giáo trong cả nước nhận bó hoa tươi thắm, tri ân từ Tổng bí thư Tô Lâm – người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà Nước

Đây là vinh dự không chỉ với cá nhân giáo sư Nguyễn Đình Đức, mà còn là vinh dự lớn với Trường Đại học Công nghệ và Đại học Quốc gia Hà Nội.

Trong suốt cuộc đời hoạt động khoa học và giảng dạy của mình, đến nay Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã đào tạo nhiều học trò tài năng, ông đã công bố 400 công trình khoa học, trong đó có 250 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Xuất bản 6 đầu sách chuyên khảo và giáo trình bằng tiếng Việt, tiếng Nga và tiếng Anh. Trong 6 năm liên tiếp từ 2019 đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là nhà khoa học Việt Nam luôn liên tục lọt top 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới; và top 100 thế giới trong lĩnh vực Engineering, ranking 74 thế giới vào năm 2024.

Với những đóng góp cho Đại học Quốc Gia Hà Nội, cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo và khoa học công nghệ của nước nhà, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã được chọn là nhà giáo tiêu biểu nhân dịp 40 năm sự nghiệp giáo dục, được Chủ tịch nước tặng Huân Chương Lao động hạng Nhì vào năm 2022, được Liên hiệp Hội KHKT Việt Nam tôn vinh là trí thức Việt Nam tiêu biểu năm 2024

(UET-News tổng hợp)

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN tham gia Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam khóa X (2024-2029)

Sáng 17/10/2024, Đại hội Đại biểu Toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X nhiệm kỳ 2024-2029 đã khai mạc tại Trung tâm Hội nghị Quốc Gia.

Về dự Đại hội có 1.052 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lực lượng vũ trang, người Việt Nam ở nước ngoài và cán bộ Mặt trận các cấp, thể hiện hình ảnh tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội. Các Ủy viên Bộ Chính trị: Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường, cùng nhiều đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, các đồng chí Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ tham dự Đại hội.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại Đại hội

Trong suốt 94 năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng lớn mạnh, tập hợp đông đảo các tổ chức, tầng lớp nhân dân, cá nhân tiêu biểu trong các giới, các dân tộc, tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, khẳng định vai trò, sứ mệnh trong việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khích lệ, cổ vũ, động viên nhân dân ta hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy, phát huy các nguồn lực, sức sáng tạo, góp phần thực hiện thành công những nhiệm vụ chiến lược của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử.

Tại Đại hội, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực tích luỹ được sau 40 năm đổi mới đất nước, với thời cơ, vận hội mới, chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là kỷ nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành công mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện mục tiêu đó, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa then chốt – đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên giữ vai trò nòng cốt, có trách nhiệm vinh quang, cao cả”.

Đại hội đã hiệp thương bầu Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa X, nhiệm kỳ 2024-2029, và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam vinh dự được Đại hội tín nhiệm hiệp thương, bầu tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa X với tư cách là nhân sỹ, trí thức tiêu biểu.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN tham gia Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam khóa X (2024-2029)

Đây là tin vui và vinh dự lớn của tập thể cán bộ, giảng viên và các em nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên của nhà trường. Với những kinh nghiệm nhiều năm trong hoạt động quản lý giáo dục đại học, uy tín và vị thế trong cộng đồng khoa học Việt Nam và Quốc tế, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sẽ có điều kiện phát huy trí tuệ và nhiệt huyết, có tiếng nói đóng góp những ý kiến quý báu cho Mặt Trận, cho các cơ quan của Đảng và Nhà nước.

Cách đây tròn ¼ thế kỷ, đúng 25 năm về trước, tại Đại hội khóa V Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam vào năm 1999, với những đóng góp của mình cho khoa học và đất nước, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cũng đã từng được hiệp thương bầu vào Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam khóa V, nhiệm kỳ 1999-2004, với tư cách đại diện cho cộng đồng Việt Nam tại Liên Bang Nga và vinh dự được tham gia Đoàn Chủ tịch của Đại hội V Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.

(UET-News tổng hợp)

Giáo sư người Việt Nam tham gia Hội đồng Khoa học của Tạp chí quốc tế Acta Mechanica

Mới đây, cuối tháng 9-2024, Giáo sư Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội chính thức đại diện cho Việt Nam trở thành thành viên của Editorial Advisory Board của tạp chí quốc tế ISI lâu đời và uy tín của ngành Cơ học: Acta Mechanica.

Được thành lập từ năm 1965 tại Áo và do nhà xuất bản Springer phát hành – Tạp chí quốc tế Acta Mechanica đã trở thành một trong những tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực cơ học lý thuyết và ứng dụng.

Ngoài các lĩnh vực cổ điển như đàn hồi, dẻo, dao động, động lực học vật rắn, thủy động lực học và động lực học khí, tạp chí còn đặc biệt chú ý đến các lĩnh vực mới phát triển như động lực học chất lưu phi Newton, cơ học vi mô -nano, vật liệu và cấu trúc thông minh, và các vấn đề liên ngành giữa cơ học và vật liệu học.

Tạp chí còn xuất bản các bài báo trong các lĩnh vực liên quan như lưu biến học, nhiệt động lực học và tương tác điện trường, từ trường và nhiệt độ với chất lỏng và chất rắn. Ngoài ra, tạp chí cũng đăng và công bố các bài báo về toán học ứng dụng giải quyết các vấn đề cơ học quan trọng .

Editors và Editorial Advisory Board là các nhà khoa học có tên tuổi và uy tín từ 27 quốc gia trên thế giới: Áo, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc, Ý, Hà Lan, Canada, Thụy Điển, Bỉ, Nauy, Ba Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Hy Lạp, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Serbia, Czech Republic, Cuba, Slovenia, Hồng Kông (Trung Quốc) và mới đây nhất là Việt Nam.

Mới đây, ngày 17.9.2024, Nhà xuất bản Elsevier cũng vừa công bố danh sách xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng thế giới. Danh sách này được xây dựng bởi nhóm các nhà khoa học của Đại học Stanford (Mỹ), dựa trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus và Giáo sư Nguyễn Đình Đức, Trường ĐH Công nghệ – ĐH Quốc gia Hà Nội cũng là một trong số 9 nhà khoa học Việt Nam cơ hữu đang công tác thường xuyên trong nước nhiều năm liền liên tiếp lọt vào bảng xếp hạng trong top 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng hàng đầu thế giới.

Năm 2024, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đứng thứ 78 trong lĩnh vực Engineering.

Nguồn: https://link.springer.com/journal/707/editorial-board

9 GS, TS Việt lọt top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới 2024

Nhà xuất bản Elsevier vừa công bố danh sách xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới. Các nhà khoa học được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Danh sách này được nhóm các nhà khoa học của Đại học Stanford (Mỹ) xây dựng dựa trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus.

Theo đó, trong số các nhà khoa học Việt Nam cơ hữu đang công tác thường xuyên trong nước, có 9 nhà khoa học lọt bảng xếp hạng top 10.000 thế giới và 60 nhà khoa học lọt bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2024, tăng cả về số lượng và thứ hạng so với những năm trước.

Trong top 9 nhà khoa học top 10.000 thế giới năm 2024 có GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và PGS.TS Lê Hoàng Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội; GS.TS Trần Xuân Bách, Đại học Y Hà Nội; GS Võ Xuân Vinh và TS Nguyễn Phúc Cảnh (ĐH Kinh tế TPHCM); TS Trần Nguyễn Hải và TS Hoàng Nhật Đức (ĐH Duy Tân); PGS Hoàng Anh Tuấn (ĐH Đông Á); TS Phạm Thái Bình (ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải).

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) nhiều năm lọt top thế giới (Ảnh: VNU).

Mở rộng danh sách xếp hạnh trong top 100.000, năm 2024 Việt Nam có 60 nhà khoa học, tăng 13 người so với năm ngoái, trong đó có nhiều nhà khoa học trẻ.

Ngoài 9 nhà khoa học được xếp hạng cao đã nêu trên, có thêm tên 51 nhà khoa học người Việt Nam gồm:

Nguyễn Xuân Hùng (Trường ĐH Công nghệ TPHCM -HUTECH), Nguyễn Thời Trung (Trường ĐH Văn Lang), Võ Đại Việt ( Trường ĐH Nguyễn Tất Thành), Bùi Quốc Tính (Trường ĐH Duy Tân), Le Ba Phong (Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội), Vương Quân Hoàng (Trường ĐH Phenikaa), Chu Đình Tới (Trường Quốc tế, ĐHQGHN), Ngô Thái Hưng (Trường ĐH Tài Chính Marketing TPHCM),Phạm Văn Hùng (Trường ĐH Quốc tế- ĐHQG TPHCM), Nguyễn Xuân Phương (Trường ĐH Giao thông Vận tải TPHCM), Phạm Văn Vinh (Học viện Kỹ thuật Quân sự), Nguyễn Đức Khương (Trường Quốc tế, ĐHQGHN), Chu Khánh Lân (Học viện Ngân hàng), Sử Đình Thành (Trường ĐH Kinh tế TPHCM), Lê Hoàng Phong (Trường ĐH Luật, TPHCM), Võ Hồng Đức (Trường ĐH Mở TPHCM),

Vũ Quang Bách (Trường ĐH Tôn Đức Thắng), Nguyễn Việt Cường (Trường Quốc tế, ĐHQGHN), Nguyễn Văn Chương (Học Viện Kỹ Thuật Quân Sự), Đỗ Đức Trung (Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội), Ngo Thanh Quang (Trường ĐH Kinh tế Tp Hồ Chí Minh), Nguyễn Trung Thắng (Trường ĐH Tôn Đức Thắng), Nguyen Quang Khai (Trường ĐH Mở TPHCM), Đào Văn Dương (Trường ĐH Phenikaa), Thái Hoàng Chiến (Trường ĐH Tôn Đức Thắng), Huỳnh Thế Thiện (Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM), Lê Thanh Hà (Trường ĐH Kinh tế Quốc dân),

Trần Văn Quân (Trường ĐH Giao thông Vận tải), Nguyễn Hoàng (Trường ĐH Mỏ Địa Chất), Nguyễn Huy Tuấn (Trường ĐH Văn Lang), Đinh Phú Hùng (Trường ĐH Thủy Lợi), Dương Viết Thông (Trường ĐH Thủ Dầu một), Nguyễn Đăng Nam (Trường ĐH Duy Tân), Nguyễn Quốc Đạt (Viện Trí tuệ nhân tạo-VinGroup), Nguyễn Trung Kiên (Trường Đại học Công nghệ TPHCM-HUTECH), Bùi Xuân Thành (ĐHQG TPHCM), Trần Văn Thuận (Trường ĐH Nguyễn Tất Thành), Le Thanh Tiep (ĐH Kinh tế Tài Chính TPHCM), Lê Thanh Cường (Trường ĐH Mở TPHCM),

Nguyễn Công Lượng (Trường ĐH Phenikka), Phạm Văn Việt (Trường Đại học Công nghệ TPHCM- HUTECH), Đỗ Minh Hoạt (Trường ĐH Duy Tân),  Đặng Văn Hiếu ( Trường Đại học Thăng Long), Huỳnh Thanh Cảnh (Trường ĐH Duy Tân), Nguyễn Xuân Thảo (Học Viện Nông nghiệp), Phùng Văn Phúc (Trường Đại học Công nghệ TPHCM – HUTECH), Vũ Văn Tuấn (Trường ĐH Văn Lang), Nguyễn Phong Nguyên (Trường ĐH Kinh tế TPHCM), Trần Quốc Trung (Trường ĐH Thương Mại), Trần Trọng Nhân (Trường ĐH Công nghiệp TPHCM), Liệu Xuân Quí (Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM).

Cách đánh giá của các chuyên gia dựa vào các tiêu chí như: chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học (composite score); tổng số trích dẫn (không bao gồm các tự trích dẫn); chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index; số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất (single author); số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính (tên đầu tiên – first author và tác giả liên hệ – corresponding author), và tác giả cuối cùng – last author.

Theo đánh giá của Elsevier, danh sách này cho thấy, những nhà khoa học nào có tác động lớn nhất trong lĩnh vực của họ.

Nếu nhà khoa học nằm trong danh sách này của Stanford Elsevier, điều đó có nghĩa là công việc của họ thực sự quan trọng và hữu ích cho các nhà khoa học khác trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Theo VTV