Ngày 11/01/2023, ĐHQGHN đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai kế hoạch nhiệm vụ năm 2023 để đánh giá những kết quả, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện kế hoạch năm vừa qua.
Trong khuôn khổ hội nghị, Giám đốc ĐHQGHN Lê Quân đã thừa ủy quyền của Chủ tịch nước trao Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba và danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo của ĐHQGHN đã được trao Huân chương Lao động hạng nhì. Đây là minh chứng cho sự tận tâm, nỗ lực và đóng góp của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong việc đào tạo và bồi dưỡng nhiều thế hệ sinh viên, học viên, NCS. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cũng là một trong những nhà khoa học Việt được vinh danh trên thế giới với những nghiên cứu có tính cải tiến và sáng tạo. Huân chương này là sự ghi nhận cho những đóng góp của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong giai đoạn qua.
GD&TĐ – Năm 2023 là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng – là năm bản lề trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của giai đoạn 5 năm 2020-2025.
Việt Nam đang chuyển mình và đổi mới mạnh mẽ với thế và lực ngày càng lớn mạnh trên trường quốc tế, trong đó có giáo dục đại học. Báo GD&TĐ phỏng vấn GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo – Đại học Quốc gia Hà Nội về những nỗ lực của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam vươn ra biển lớn.
Bước tạo đà
Giáo dục đại học có vai trò then chốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao cho đất nước. Xin giáo sư cho biết vấn đề đặt ra đối với GDĐH Việt Nam?
Trước hết là vấn đề chất lượng: Giáo dục, trong đó có giáo dục đại học phải luôn lấy chất lượng làm yếu tố then chốt nhất. Mà trong yếu tố chất lượng thì chất lượng đội ngũ là yếu tố quan trọng nhất. Do đó vấn đề đặt ra với các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trước hết phải đặc biệt quan tâm và chú trọng tới việc xây dựng đội ngũ và phát triển tiềm lực KHCN.
Chúng ta cũng cần tiếp tục đẩy nhanh, mạnh hơn nữa tiến độ kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo, đẩy nhanh quá trình hội nhập với các chuẩn mực và trình độ quốc tế. Để có nguồn lực cho sự phát triển, năm 2023, các cơ sở GDĐH cần hoàn thành sớm việc xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật cho tất cả các chương trình đào tạo, đồng thời đẩy nhanh tự chủ đại học.
Bên cạnh đó, như các bạn đã biết, Luật GDĐH ban hành từ 2012, sửa đổi cuối năm 2018 đã có rất nhiều điểm tích cực và đột phá, tuy nhiên trong quá trình triển khai trên thực tế đã bộc lộ còn có những điểm chưa thật sự phù hợp (như mô hình và vai trò Hội đồng trường trong các trường đại học công lập).
Chúng ta cũng cần phải thấy rằng tư duy và triết lý về đại học – trường đại học. Trong đó vai trò dẫn dắt của 2 đại học quốc gia và các đại học nghiên cứu là ý nghĩa. Hoặc hiện nay, chứng nhận kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo được xem như căn cứ duy nhất để xác định mức thu học phí,…) và vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi trong thời gian tới.
Vậy theo giáo sư, mô hình và xu thế phát triển của các trường đại học trong tương lai nên thế nào?
Song hành với hoạt động đào tạo, mô hình và xu thế phát triển của một trường đại học trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có 3 trụ cột chính quan trọng nhất là: Nghiên cứu (để chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học và tri thức) – Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số.
Đây là những định hướng quan trọng để các cơ sở giáo dục đại học bám sát xây dựng định hướng cho chiến lược phát triển của mình trong quá trình hội nhập quốc tế, trong bối cảnh CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.
Bứt phá
Từ thực tế GDĐH Việt Nam năm vừa qua, GS có tin rằng các trường đại học sẽ phát huy thế mạnh và mang lại những luồng gió mới, nguồn lực mới, điểm đến cho những nhà khoa học nhiều hoài bão và tài năng như mong muốn?
Tự chủ đại học và những chính sách cởi mở và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta những năm gần đây, cũng như sự hội nhập mạnh mẽ với các chuẩn mực và trình độ quốc tế chính trong giáo dục đại học là những luồng gió mới, là cơ sở để đem lại những nguồn lực mới cho sự phát triển.
Thực tế cho thấy kể từ khi thực hiện tự chủ đại học, các trường đại học đã nhanh chóng thu hút được nhiều nguồn lực trong và ngoài nước hơn cho sự phát triển. Trường nào tự chủ càng nhanh thì càng có điều kiện để thu hút được nhiều nhà khoa học tài năng trong và ngoài nước đến làm việc. Và từ đó nhà trường mạnh hơn, đóng góp ngày càng nhanh và nhiều hơn, tốt hơn cho tiềm lực KHCN của nước nhà.
Với chế độ đãi ngộ khá tốt, môi trường làm việc thuận lợi trong các nhóm nghiên cứu mạnh, hiện nay, một số trường đại học lớn, có uy tín của Việt Nam như 2 ĐHQG, ĐH Bách Khoa Hà Nội và một số trường đại học khác của Việt Nam thực sự đã là địa chỉ tin cậy thu hút ngày càng nhiều nhà khoa học tài năng trong và ngoài nước đến làm việc.
Vậy năm 2023 này, GS có kỳ vọng giáo dục đại học Việt Nam sẽ tiếp tục có những bước phát triển đột phá và ngoạn mục về chất lượng theo yêu cầu đổi mới đặt ra?
Giáo dục đại học Việt Nam trong những năm gần đây luôn có những bước phát triển nhanh và mạnh theo từng năm trên nhiều lĩnh vực.
Một ví dụ, theo công bố trên tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố năm 2022, có 34 nhà khoa học cơ hữu trong nước lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới. Đối chiếu lại các số liệu từng năm, chúng ta thấy năm 2022 tăng thêm 6 người so với năm 2021, và năm 2021 lại tăng hơn 6 người so với năm 2020.
Với các lĩnh vực của ĐHQGHN, nếu như năm 2021 chỉ có 5 lĩnh vực trong top 500 trong bảng xếp hạng QS thế giới, thì năm 2022, đã có 6 lĩnh vực lọt top xếp hạng 500. Toán học và Vật lý từ 500 tăng hạng lên 400 trong năm 2022. Và lần đầu tiên, trong năm 2022, lĩnh vực Engineering đã xếp hạng 386 thế giới.
Với đà như vậy, tôi kỳ vọng, và rất tin tưởng giáo dục đại học Việt Nam sẽ có những bước phát triển đột phá mạnh mẽ trong năm 2023 và những năm tới.
Để GDĐH đóng góp ngày càng to lớn và thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời hội nhập ngày càng nhanh và mạnh mẽ với các chuẩn mực và trình độ quốc tế, theo ông các cấp quản lý cần có sự điểu chỉnh thế nào?
Giáo dục đại học đào tạo nguồn nhân lực từ trình độ cử nhân đến tiến sỹ, và cả bậc sau tiến sỹ. Các trường đại học chính là nơi đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao và tinh hoa nhất cho đất nước.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, số bài báo quốc tế ISI/Scopus của Việt nam trong năm 2022 là 17625 bài, trong số đó các công bố của các trường đại học đã chiếm đến 90%.
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, Ấn Độ cho thấy: giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và tiềm lực KHCN chính là chìa khóa, là chiếc đũa thần để đưa dân tộc ta nắm bắt những vận hội và bứt phá vươn lên, sánh vai với các nước năm châu.
Để GDĐH tiếp tục phát triển mạnh mẽ xứng đáng với kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh CMCN 4.0 (trên thế giới, Nhật Bản còn đề ra mục tiêu và đang triển khai xây dựng Xã hội 5.0), theo tôi, có một số điểm các cấp quản lý cần đặc biệt chú trọng quan tâm triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Trước hết, các cấp quản lý cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình và hoàn thiện mô hình tự chủ đại học, đi đôi với rà soát các điều kiện đảm bảo chất lượng của các chương trình đào tạo trong các trường. Không thực hiện tốt tự chủ đại học, không có động lực và nguồn lực cho sự phát triển các trường đại học.
Cần đẩy nhanh quá trình thực hiện Đề án quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam, chuẩn hóa các chương trình đào tạo theo khung tham chiếu năng lực khu vực và quốc tế.
Từng cơ sở giáo dục đại học cần chủ động rà soát hoạt động quản trị đại học, đẩy mạnh chuyển đổi số và tin học hóa quy trình quản lý trong các trường đại học cũng như áp dụng các công nghệ giảng dạy mới, tiên tiến trong tổ chức đào tạo.
Và cuối cùng, như tôi đã phân tích ở trên, vẫn phải nghiên cứu và tiếp tục sửa đổi Luật GDĐH. Với những giải pháp then chốt chủ yếu như vậy, nếu thực hiện tốt, tôi tin là trong thời gian tới sẽ tạo nên những bước phát triển đột phá trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Các bộ ngành cũng như các trường đại học cần nhanh chóng triển khai thực hiện Nghị định 109/NĐ-CP của Chính Phủ mới ban hành ngày 30/12/2022 về Hoạt động KHCN trong các trường đại học, trong đó chú trọng đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động KHCN và các nhóm nghiên cứu mạnh tầm quốc gia, quốc tế đi đôi với tăng đầu tư trực tiếp cho con người, thu hút nhân tài để thúc đẩy mạnh mẽ và tạo ra những đột phá trong hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo của Việt Nam trong quá trình vươn ra biển lớn. – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức
Ngày 11/01/2023, trong khuôn khổ Hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã trao Giải thưởng Nhà giáo của năm và các giải thưởng về đổi mới giảng dạy tại ĐHQGHN, Giải thưởng IMG – Vì sự nghiệp giáo dục do Công ty Cổ phần Đầu tư IMG tài trợ.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN và TS Ma Thị Châu – Giảng viên Trường Đại học Công nghệ.
Trong số 10 nhà giáo được nhận Giải thưởng Nhà giáo của năm, ĐHQGHN đã tiến hành lựa chọn và trao Giải thưởng IMG – Vì sự nghiệp giáo dục cho 2 cá nhân (GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN giành giải Nhất trị giá 300 triệu đồng và TS Ma Thị Châu – Giảng viên Trường Đại học Công nghệ giành giải Nhì trị giá 100 triệu đồng).
Quy chế Giải thưởng Nhà giáo của năm và các giải thưởng về đổi mới giảng dạy tại ĐHQGHN được ban hành kèm theo quyết định số 3645/QĐ-ĐHQGHN ngày 21/10/2022 làm cơ sở cho việc tổ chức xét chọn các danh hiệu và ghi nhận những đóng góp nổi bật của các nhà giáo đối với hoạt động giáo dục tại ĐHQGHN. Năm 2022, ĐHQGHN đã bình xét và lựa chọn được 10 nhà giáo đạt danh hiệu Nhà giáo ĐHQGHN của năm, bao gồm: (1) GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN; (2) GS.TS Nguyễn Ngọc Minh – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên; (3) PGS.TS Nguyễn Mạnh Khải – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên; (4) PGS.TS Vũ Trọng Lưỡng – Trường Đại học Giáo dục; (5) PGS.TS Nguyễn Thị Xuân Sơn – Trường Đại học Luật; (6) PGS.TS Nguyễn An Thịnh – Trường Đại học Kinh tế; (7) PGS.TS Lưu Quốc Đạt – Trường Đại học Kinh tế; (8) TS Nguyễn Đình Lâm – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; (9) TS Ma Thị Châu – Trường Đại học Công nghệ; (10) TS Chu Đình Tới – Trường Quốc tế.
We are pleased to announce that a distinguished member of VJU, Professor, Doctor of Science Nguyen Dinh Duc, the director of Civil Engineering program (undergraduate and graduate level) has been named in the 2022 List of the World’s Top 100,000 Scientists with the most citation and this is the fourth consecutive year, he is named in this list. In 2022, Prof. Nguyen Dinh Duc ranked the 7454th in the top 10,000 and the 94th in the field of Engineering.
There is also Associate Professor Le Hoang Son from Vietnam National University, Hanoi who ranked the 5816th in the top 10,000 and the 222nd in the field of Information & Communication Technologies, included in the list.
There are many new faces in the list such as Assoc.Prof.Dr. Tran Quang Trung (VNU-HCM, ranked 47,614), Dr. Dao Van Duong (Phenikaa University, 61,711th , Dr. Vuong Quan Hoang Phenikaa University, 61,452nd), Dr. Chu Dinh Toi (International School, VNU-HN 66,906th).
This list was compiled by Professor John Ioannidis of Stanford University, USA, in collaboration with Elsevier BV. This ranking, widely regarded as the most prestigious global ranking of researchers, is based on bibliometric data from the Scopus database. The authors have created a publicly available database of top-cited scientists that provides standardized information on citations, h-index, co-authorship adjusted hm-index, citations to papers in different authorship positions and a composite indicator (c-score). Separate data are shown for career-long and, separately, for single recent year impact. Metrics with and without self-citations and ratio of citations to citing papers are given. Scientists are classified into 22 scientific fields and 176 sub-fields. Field- and subfield-specific percentiles are also provided for all scientists with at least 5 papers. Career-long data are updated to end-of-2021 and single recent year data pertain to citations received during calendar year 2021. The selection is based on the top 100,000 scientists by c-score (with and without self-citations) or a percentile rank of 2% or above in the sub-field, updated to end of citation year 2021. This work uses Scopus data provided by Elsevier through ICSR Lab (https://www.elsevier.com/icsr/icsrlab).
Các giải thưởng thế giới ghi danh tên tuổi nhà khoa học Việt Nam vì nghiên cứu có tầm ảnh hưởng, được trích dẫn nhiều và đóng góp trong lĩnh vực họ đang theo đuổi.
35 người Việt vào top nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới
Năm 2022 số nhà khoa học Việt trong lọt danh sách “100.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng” là 35, tăng 6 người so với năm trước đó. Họ được lựa chọn dựa trên nhiều chỉ số, trong đó có tổng số trích dẫn nghiên cứu. Bảng xếp hạng được đưa ra bởi nhóm nhà khoa học của GS John P.A. Ioannidis thuộc Đại học Stanford (Mỹ), được xây dựng trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus.
Trong top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 2 nhà khoa học là PGS.TS Lê Hoàng Sơn và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội). Hai người này đều lọt vào top 4 năm liên tiếp 2019, 2020, 2021 và 2022. Trong 3 năm liên tiếp, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức lọp top 100 thế giới – và năm 2022 GS Đức đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering.
Danh sách năm nay có thêm nhiều gương mặt mới, như PGS. TS Trần Quang Trung (Đại học Quốc gia TP HCM, xếp hạng 47.614), TS Đào Văn Dương (Đại học Phenikaa, xếp hạng 61.711), TS Vương Quân Hoàng (Đại học Phenikaa, xếp hạng 61.452), TS Chu Đình Tới (Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 66.906).
Ba nhà khoa học vinh danh “ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc thế giới”
Tháng 11/2022 Website Research.com, cổng thông tin điện tử uy tín dành cho các nhà khoa học thế giới đã công bố kết quả xếp hạng các nhà khoa học có thành tích xuất sắc trong công bố khoa học.
Trong danh sách “Rising Star”, dành cho nhà khoa học có thành tích xuất sắc trong công bố khoa học có tên PGS Trần Xuân Bách, PGS.TS Lê Hoàng Sơn và TS Phùng Văn Phúc. Đây là lần đầu tiên bảng xếp hạng “Best Rising Stars of Science in the World” được công bố.
Trong đó, PGS Trần Xuân Bách, Đại học Y Hà Nội, là nhà khoa học của Việt Nam duy nhất có mặt trong top 10 nhà khoa học đầu bảng (xếp hạng 3), lĩnh vực Y học cộng đồng. Trần Xuân Bách trở thành Phó giáo sư trẻ nhất Việt Nam ở tuổi 32 năm 2016. Ông có hơn 300 bài báo trên các tạp chí quốc tế được đánh giá cao về khoa học sức khỏe toàn cầu.
PGS.TS Lê Hoàng Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 190, được biết đến là nhà khoa học trẻ tài năng lĩnh vực khoa học máy tính với những công trình nghiên cứu ứng dụng cao, được các công ty công nghệ trong và ngoài nước đón nhận. Nhiều nghiên cứu ứng dụng thực tế như hệ thống 3D GIS trong thiết kế hạ tầng mạng viễn thông, xây dựng ứng dụng hiến máu trên Android, ứng dụng quản lí địa chính… Đặc biệt, có đến hơn nửa công trình nghiên cứu của ông được ứng dụng ở các nước đi đầu về khoa học công nghệ như Mỹ, Italy, Đức… PGS Sơn công bố hơn 180 công trình, bài báo trên các tạp chí nước ngoài trong danh mục ISI. Ông còn là gương mặt lọt vào top 10.000 nhà khoa học xuất sắc của thế giới trong 4 năm liên tiếp 2019, 2020, 2021, 2022.
TS Phùng Văn Phúc, Đại học Công nghệ TP HCM, xếp hạng 958, lĩnh vực Kỹ thuật cơ khí và Hàng không vũ trụ. PGS Phúc là nhà khoa học Việt quen thuộc trong các bảng xếp hạng thế giới, ông có 4 năm liền vào danh sách 100.000 nhà khoa học ảnh hưởngnhất thế giới.
Nhà khoa học trẻ tài năng thế giới được UNESCO vinh danh
PGS.TS Hồ Thị Thanh Vân (42 tuổi) cùng với 14 nhà khoa học nữ trẻ xuất sắc đại diện cho 5 châu lục được nhận giải thưởng Nhà khoa học trẻ tài năng thế giới năm 2022. Giải thưởng danh giá này nằm trong khuôn khổ chương trình Vì sự phát triển của phụ nữ trong khoa học, do Quỹ L’Oréal và UNESCO khởi xướng, vinh danh các nhà khoa học nữ trong các lĩnh vực Khoa học sự sống, môi trường, vật lý, toán học và khoa học máy tính.
PGS Vân có những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực pin nhiên liệu. Công trình của PGS Vân đã thay thế bạch kim trong pin nhiên liệu, giúp giảm giá thành mà pin có độ bền cao hơn. Nghiên cứu được đánh giá là giúp tối ưu hóa hoạt động của pin nhiên liệu để cải thiện hiệu suất và cho phép sản xuất năng lượng hydro bền vững, tránh việc đốt nhiên liệu hóa thạch và giảm lượng khí thải carbon.
Chị công bố 90 bài báo trên các tạp chí trong và ngoài nước, đạt nhiều giải thưởng khoa học công nghệ quốc gia và quốc tế uy tín. Năm 2019, PGS Vân được nhận giải Nhà khoa học nữ xuất sắc Việt Nam 2019. Năm 2020, chị lọt vào top 23/100 nhà khoa học tiêu biểu Châu Á do tạp chí Asian Scientist bình chọn. Hiện chị đảm nhiệm vị trí giảng viên, Trưởng phòng khoa học công nghệ và Quan hệ đối ngoại, Đại học Tài nguyên và môi trường TP HCM.
Người Việt duy nhất nhận Giải thưởng Hiệp hội Hàng không Hoàng gia Anh
TS Nguyễn Huyền Đức (27 tuổi), Đại học Bristol (Anh), là một trong 10 nhân vật được vinh danh ở hạng mục Young Persons’ Achievement Award – giải thưởng thành tựu dành cho gương mặt trẻ – có đóng góp đặc biệt trong lĩnh vực hàng không vũ trụ 2022. TS Đức là người Việt duy nhất được vinh danh trong danh sách này.
TS Đức nhận bằng MEng (bằng kỹ thuật) năm 2019 và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Đại học Bristol hồi năm 2021. Anh tiếp tục đảm nhiệm vai trò nghiên cứu, giảng dạy tại trường cho đến nay và công bố 8 bài báo trên tạp chí khoa học thuộc nhóm Q1 (đều là tác giả đứng đầu) và 10 báo cáo hội nghị.
Hướng nghiên cứu chính của TS Đức là động lực học máy bay và điều khiển tự động trong sản xuất vật liệu tổng hợp sử dụng trong ngành hàng không vũ trụ. Anh đặc biệt quan tâm đến phương pháp phân nhánh và ứng dụng hệ thống động lực giải quyết các vấn đề hàng không vũ trụ.
Giáo sư Việt được Hiệp hội Hoá học Hàng gia Anh vinh danh
GS Nguyễn Thị Kim Thanh, Đại học College London (UCL) là một trong ba nhà khoa học giành giải thưởng Interdisciplinary Prize 2022, ghi nhận những đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Bà có những đóng góp liên ngành trong nghiên cứu cơ bản về tổng hợp hóa học, vật liệu nano từ tính và plasmonic cho các ứng dụng y sinh. Những nghiên cứu này có thể mang lại lợi ích trực tiếp trong nâng cao tuổi thọ của bệnh nhân ung thư.
GS Kim Thanh tốt nghiệp chuyên ngành hóa học tại ĐHQG Hà Nội năm 1992. Bà được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại học College London (UCL) từ năm 2013 và dẫn đầu nhóm nghiên cứu liên ngành tiên tiến về thiết kế và tổng hợp vật liệu nano cho ứng dụng y sinh. Năm 2019, GS Thanh nhận huy chương Rosalind Franklin cho những thành tựu có tầm ảnh hưởng lớn về nghiên cứu ứng dụng vật liệu nano trong y sinh.
Với hoàn cảnh đội ngũ, cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học công nghệ của Việt Nam như hiện nay thì không nên thành lập thêm nhiều đại học mà hãy phát triển thành các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực một cách thực chất và hiệu quả, đẩy mạnh tự chủ đại học để giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với chuẩn mực và trình độ, chất lượng quốc tế…
Vừa qua, dư luận xã hội rộ lên và xôn xao về việc “trường Đại học Bách Khoa Hà Nội” nâng cấp và đổi tên thành “Đại học Bách Khoa Hà Nội”. Là người gắn bó nhiều năm và trưởng thành từ Đại học Quốc gia Hà Nội, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức có những chia sẻ về mô hình này.
Mong tiếp tục đổi mới Luật Giáo dục đại học
Năm 1993, từ tâm huyết và tầm nhìn xa trông rộng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và chủ trương cũng như quyết tâm của Bộ chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập với mục tiêu thành một Đại học có quyền tự chủ cao nhất, đa ngành, đa lĩnh vực, có sứ mệnh làm nòng cột, tiên phong và đầu tàu đổi mới trong hệ thống giáo dục đại học của nước nhà.
Đại học Quốc gia Hà nội (ĐHQGHN) được thành lập trên cơ sở từ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (ban đầu có cả trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhưng sau đó đã lại tách ra). ĐHQGHN là Vietnam National University Hanoi, và các trường thành viên là các College. Giám đốc được quy định dịch ra tiếng Anh là President, hiệu trưởng các trường thành viên quy định dịch ra tiếng Anh là Rector.
Lưu ý là ĐHQGHN và Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh (ĐHQG TPHCM) vận hành theo mô hình khác nhau. ĐHQG TPHCM theo mô hình tổ hợp một cách cơ học các trường đại học thành viên gộp lại mà thành. ĐHQGHN có sự cơ cấu lại, sử dụng chung nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, với cơ chế liên thông liên kết giữa các đơn vị, mô hình a +b (một trường này tồn tại và phát triển có sự đóng góp liên thông và hỗ trợ của các trường khác), và nhờ vận hành theo mô hình “one VNU” này, ĐHQGHN đã phát huy được sức mạnh của các đơn vị thành viên, phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Đặc biệt bên cạnh các ngành khoa học cơ bản, lĩnh vực kỹ thuật công nghệ và y dược của ĐHQGHN đã được xây dựng, khẳng định và phát triển vượt bậc. Năm 2022, lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ của ĐHQGHN đã vươn lên xếp hạng thứ 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS.
Năm 2012, Luật giáo dục Đại học (GDĐH) ra đời. Một điểm mới là lần đầu tiên đã đưa khái niệm Đại học Quốc Gia và Đại học vùng vào Luật – được quy định là để các đại học này thực hiện sứ mệnh của quốc gia và của vùng.
Quy chế tổ chức hoạt động của Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quy định. Còn quy chế tổ chức và hoạt động của các Đại học vùng do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Riêng về vai trò, sứ mệnh và vị trí của 2 Đại học Quốc gia còn được ghi nhận thành hẳn 1 Điều trong Luật.
Nhưng trong Luật GDĐH 2012 cũng lần đầu tiên quy định rằng trong Đại học có các trường đại học thành viên. Cả Đại học và trường đại học đều do Thủ tướng ký quyết định thành lập.
Từ đó, chính thức ở nước ta có mô hình được nước ngoài hiểu nôm na là “trường đại học trong trường đại học”. Giám đốc Đại học là President. Hiệu trưởng các trường thành viên cũng thành President. Và đã có lần trong Hội nghị quốc tế, Phó Giám đốc ĐHQG là Vice-President được Ban tổ chức xếp ngồi hang dưới các Hiệu trưởng – President.
Luật GDĐH 2018 lại “mạnh dạn” đổi mới hơn nữa. Ngoài khái niệm Đại học Quốc gia và các Đại học vùng, còn đưa vào Luật việc có thể thành lập thêm nhiều Đại học khác (nếu đáp ứng một số điều kiện).
Theo Luật là trường đại học là cơ sở giáo dục đại học có nhiều ngành, còn đại học là có nhiều lĩnh vực. Riêng định nghĩa này cũng đã là việc phải bàn lại. Vì như trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, bao gồm nhiều khoa, với các lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Xã hội Nhân văn, Kinh tế, Luật – đâu cần có nhiều trường thành viên – rõ ràng đã là một Đại học.
Và hệ quả là, từ Luật GDĐH sửa đổi 2018, mới đây trường Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành Đại học Bách khoa Hà Nội. Và một số trường đại học khác cũng hăng hái tuyên bố tiếp tục sẽ trở thành các Đại học. Với những người quản lý giáo dục thì hiểu sự khác nhau giữa Đại học và trường đại học, còn tuyệt đại đa số xã hội thấy bất ngờ và ngạc nhiên.
Mâu thuẫn sẽ tồn tại trong sự thống nhất
Từ trước đến nay, khái niệm trường đại học và Đại học được nhân dân và ngôn ngữ tiếng Việt đã hiểu và đồng hóa làm một, ở một khía cạnh nào đó, đều là “trường đại học” cả. Diễn đạt trong Luật tưởng như rành mạch về định nghĩa, nhưng lại sử dụng từ trùng lặp đã có trước đó và tồn tại hiện hữu trong dân gian, gây ra sự khó hiểu trong xã hội và Luật rõ ràng chưa tính đến điều này.
Hơn nữa, một điểm mới trong Luật 2018 là đưa vào khái niệm Tự chủ đại học. Và đối chiếu với các quy định để tự chủ như hiện nay, thì các trường đại học thành viên dễ thành cơ sở giáo dục đại học tự chủ hơn là đại học – và khi đó sẽ có nhiều quyền hơn cả đại học.
Nếu không cẩn thận, mâu thuẫn sẽ tồn tại trong sự thống nhất. Tự chủ các trường thành viên càng mạnh thì mâu thuẫn này càng lớn. Các đại học, trong đó kể cả 2 Đại học Quốc gia, nếu không tập hợp và tập trung được lực lượng để chỉ đạo điều hành thống nhất, sẽ không còn sức mạnh tập trung.
Với mô hình đại học 2 cấp, cái rất cần thiết là tăng quyền tự chủ mạnh hơn nữa cho Đại học. Việc áp dụng các mô hình và kinh nghiệm của nước ngoài là cần thiết, nhưng không có nghĩa ở nước ngoài có là áp dụng ngay ở Việt Nam. Cần có nghiên cứu, đánh giá sự phù hợp và hiệu quả, có cơ sở khoa học, và nhất và cơ sở thực tiễn.
Chỉ 2 điều trên đây, đủ thấy giáo dục đại học của chúng ta đã có biết bao nỗ lực để đổi mới, và đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn vô cùng lúng túng, đôi khi thiếu thực tiễn và thiếu tư duy hệ thống.
Nếu cứ để như thế này sẽ chỉ thấy có thêm nhiều “đại học”, thêm nhiều “trường đại học” mới, và kéo theo sẽ có thêm nhiều vị có chức danh Giám đốc đại học, Hiệu trưởng các trường đại học – nhưng giáo dục đại học của chúng ta vẫn không tiến lên phía trước.
Năm 2022, không có đại học lớn nào của Việt Nam tăng hạng. Thậm chí một số đại học lớn đã bắt đầu tụt hạng.
Cho nên việc Đại học Bách Khoa Hà Nội vừa rồi tuyên bố không thành lập các trường đại học thành viên là một quyết định khôn ngoan và sáng suốt.
Xem ra mô hình ban đầu như các bậc tiền bối thành lập Đại học Quốc Gia: University và các College là chuẩn nhất và có tính hệ thống, phù hợp nhất.
Với hoàn cảnh đội ngũ, cơ sở vật chất và tiềm lực KHCN của Việt Nam như hiện nay, cá nhân tôi không ủng hộ và cổ súy cho việc thành lập thêm nhiều đại học. Mà hãy phát triển thành các trường đại học đa ngành đa lĩnh vực một cách thực chất và hiệu quả, đẩy mạnh tự chủ đại học để giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với chuẩn mực và trình độ, chất lượng quốc tế – đây mới là triết lý bất di bất dịch và là những nội dung cấp thiết nhất của đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
Ngày 02/12/2022, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ đã ký quyết định số 1204/QĐ-TCCB về việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông trực thuộc Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập vào năm 2018 theo sáng kiến và đề xuất của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức. Trước đó vào năm 2017, Nhà trường đã bắt đầu tuyển sinh và đào tạo ngành kỹ sư Công nghệ kỹ thuật – xây dựng. Trải qua 5 năm xây dựng, Bộ môn đã phát triển về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Về công tác đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh khóa I từ 60 sinh viên tăng lên 120 sinh viên, quy mô đào tạo hiện nay hơn 450 sinh viên, hoàn chỉnh các bậc đào tạo từ kỹ sư đến thạc sỹ và tiến sỹ. Điểm đầu vào ngành kỹ thuật xây dựng của Bộ môn luôn có điểm trúng tuyển cao nhất cả nước trong khối ngành xây dựng – giao thông. Đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao với tỷ lệ công bố quốc tế ISI/scopus đạt trung bình 2 bài/1 giảng viên/năm. Phát huy thế mạnh của Trường ĐH Công nghệ về công nghệ thông tin, điện tử – vi cơ điện tử, cơ học kỹ thuật, từ những ngày đầu thành lập, Bộ môn đã xây dựng và cập nhật những môn học hiện đại như công nghệ mới trong xây dựng – giao thông, thiết kế hệ thống, phát triển bền vững,… gần đây nhất là Bộ môn đã bổ sung thêm các môn học như: các công nghệ xây dựng hiện đại, BIM, trí tuệ nhân tạo trong Xây dựng Giao thông, phát triển bền vững,… góp phần tạo đà và nền tảng thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông có đặc sắc như hiện nay.
Lãnh đạo ĐHQGHN, lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ và GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức tại lễ trao Quyết định thành lập Bộ môn năm 2018
Với những môn học hiện đại, nghiên cứu khoa học chất lượng, Bộ môn đã tăng cường hợp tác phát triển đào tạo gắn kết với doanh nghiệp, giúp sinh viên tăng cường trải nghiệm thực tiễn và hỗ trợ hướng nghiệp, việc làm trong tương lai, đồng thời Bộ môn còn hợp tác triển khai các hướng nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực xây dựng – giao thông với Viện Khoa học công nghệ xây dựng Việt Nam; Tổng Công ty CONICO; FACON; Tập đoàn Trường Thành, Đào Cả, Công ty Shimizu (Nhật Bản),…Với sự hiện diện của ngành đào tạo và Bộ môn, năm 2021, trường ĐH Công nghệ đã tham gia và là thành viên của Câu lạc bộ khối các trường đào tạo ngành xây dựng và kiến trúc.
GS Nguyễn Đình Đức tại lễ ra mắt Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ khối các trường đào tạo ngành xây dựng và kiến trúc năm 2021
Trong 5 năm qua ,Bộ môn cũng đã triển khai hợp tác hiệu quả với trường đại học lớn của thế giới như ĐH Tổng hợp Melbourne (Úc), ĐH Tổng hợp Birmingham (Vương Quốc Anh); ĐH Tokyo, ĐH Tsukuba (Nhật Bản); ĐH Yonsei và ĐH Sejong của Hàn Quốc, chương trình ERAMUS+ của Pháp và cộng đồng châu Âu,…
Bộ môn có nhiều hợp tác về đào tạo, nghiên cứu đối với Tổng Công ty CONICO
Sinh viên Bộ môn được trải nghiệm thực tế, hỗ trợ hướng nghiệp và việc làm trong tương lai
Sự nỗ lực trong suốt 5 năm qua của giảng viên và sinh viên Bộ môn đã được ghi dấu ấn khi nhóm sinh viên Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông là đại diện duy nhất của Việt Nam lọt vào vòng chung kết và đạt giải thưởng tại cuộc thi quốc tế về thiết kế sử dụng phần mềm BIM được tổ chức bởi công ty FORUM 8, diễn ra tại Nhật Bản năm 2022.
Đến nay với sự phát triển về đào tạo và nghiên cứu của Bộ môn, việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông trên cơ sở Bộ môn trực thuộc trường đã chin muồi và là điều thiết yếu. Từ đó, Khoa sẽ giúp Trường triển khai vận hành chương trình đào tạo công nghệ xây dựng – giao thông theo mô hình hiện đại đáp ứng yêu cầu và sứ mệnh đào tạo nhân tài, đào tạo chất lượng cao, trình độ cao, theo phương châm đổi mới sáng tạo, học gắn với nghiên cứu, với thực tiễn và khởi nghiệp.
Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực Công nghệ kỹ thuật xây dựng – giao thông, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống công trình, giao thông theo hướng hiện đại – phát triển xanh – thông minh – bền vững, từ đó đóng góp tích cực vào sự phát triển nền kinh tế và xã hội tri thức của đất nước trong xu thế cuộc CMCN 4.0. Trên bản đồ thế giới trong lĩnh vực Civil Engineering từ nay có tên của Trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN.
Với mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2025 “Trở thành đơn vị mạnh về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Công nghệ xây dựng, giao thông, đô thị dựa trên thế mạnh về công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, cơ học kỹ thuật và tự động hóa, vật lý kỹ thuật, công nghệ nano, công nghệ sinh học của Trường ĐH Công nghệ và các thế mạnh liên ngành, liên lĩnh vực của ĐHQGHN”, Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông ra đời là sự kiện và dấu ấn quan trọng của trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN.
Ngày hôm nay, 02-12-2022, đúng ngày khai mạc Hội nghị Cơ học Toàn quốc lần thứ XI, Đại hội Hội Cơ học Việt Nam, kỷ niệm 40 năm thành lập Hội Cơ học Việt Nam (1982-2022) và 85 năm ngày sinh GS.VS Nguyễn Văn Đạo, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ đã ký quyết định số 1204/QĐ-TCCB về việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng-Giao thông trực thuộc trường ĐH Công nghệ.
Vậy là mơ ước và công sức bao nhiêu năm nay, tôi ấp ủ từ 2008 khi còn làm Phó Hiệu trưởng ĐH Công nghệ đã thành hiện thực.
GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức
Ngành Cơ học là nền tảng của Kỹ thuật Công nghệ, nhưng làm gì có Bộ cơ? Khoa học muốn phát triển, ngành Cơ muốn phát triển phải gắn với thực tiễn, gắn với các bộ ngành cụ thể, phải giải quyết được các vấn đề của Khoa học và Thực tiễn đề ra. Với tên gọi Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (tiếng anh ngắn gọn là Civil Engineering), các lĩnh vực nghiên cứu sẽ định hướng gắn chặt với 2 ngành lớn nhất của đất nước là Xây dựng và Giao thông. Sự kiện này mở ra một con đường thênh thang cho sự phát triển của lĩnh vực, phục vụ tốt nhu cầu của thực tiễn.
Mặc dù được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Bộ môn trực thuộc trường lên Khoa, nhưng qua 5 năm phát triển, đến nay đã có quy mô đào tạo 500 sinh viên/năm (chỉ tiêu tuyên sinh 100 kỹ sư/năm), hoàn chỉnh các bậc đào tạo ThS, TS; và là đơn vị công bố quốc tế mạnh nhất trường ĐHCN cả về số lượng và chất lượng. Khoa cũng đã xây dựng được PTN hiện đại trên Hòa Lạc, là cơ sở để thực hành, nghiên cứu và đào tạo chất lượng cao. Ngay từ khi thành lập ĐH Đông Dương năm 1906, tiền thân của ĐHQGHN ngày nay, lúc đó đã có 5 Khoa, trong đó có School of Civil Engineering.
Dạt dào cảm xúc và biết bao xúc động là cảm xúc chung của Thầy và Trò Khoa Công nghệ Xây dựng-Giao thông trực thuộc trường ĐH Công nghệ. Xin cảm ơn Lãnh đạo ĐHQGHN, lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ đã ủng hộ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho ra đời Khoa mới này.
Tin tưởng một điều chắc chắn với vị thế mới, Khoa sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần xứng đáng và hiệu quả trong sự nghiệp đào tạo nhân lực CLC, trình độ cao trong lĩnh vực Civil Engineering cho đất nước và cho ngành Xây dựng và Giao thông; đóng góp xứng đáng vào sự lớn mạnh và phát triển của ĐH Công nghệ cũng như của ĐHQGHN, và của cả ngành Cơ học của Việt Nam.
GS Nguyễn Đình Đức: “Làm KH thì không “ăn xổi” được, lại càng không thể chạy theo hư danh. Đã làm KH là phải dấn thân, đam mê, dám chấp nhận thiệt thòi, hy sinh”.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Trưởng Ban Đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) được vinh danh trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn khoa học xuất sắc nhất, có tầm ảnh hưởng thế giới năm 2022.
Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức để hiểu hơn về những cố gắng và nỗ lực trong việc nghiên cứu khoa học của thầy và các đồng nghiệp.
_____
Phóng viên: Xin chúc mừng Giáo sư được vinh danh trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn khoa học xuất sắc nhất, có tầm ảnh hưởng thế giới năm 2022.
Là người liên tiếp có mặt trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong 4 năm qua và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering, Giáo sư có thể chia sẻ những yếu tố quan trọng nào giúp các công bố khoa học có sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Theo tôi, để công bố khoa học có sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới, thì trước hết nhà khoa học phải có năng lực kiến thức, trình độ và phương pháp nghiên cứu thật tốt, thật bài bản và hiện đại để đủ sức giải quyết những vấn đề lớn, mới mẻ trong khoa học; đặc biệt là phải chọn được hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại, hội nhập với thế giới; mạnh dạn dấn thân nghiên cứu những vấn đề mà trước đó chưa có ai giải quyết hoặc chưa giải quyết được; và những kết quả nghiên cứu nhận được của nhà khoa học phải có đủ tầm, có phát hiện mới, đóng góp đáng kể thúc đẩy sự phát triển của khoa học và nhờ vậy mới nhận được sự quan tâm và trích dẫn của cộng đồng khoa học quốc tế; và để duy trì và phát huy được những yếu tố trên, nhà khoa học phải xây dựng được nhóm nghiên cứu mạnh.
Những nhà khoa học có thứ hạng cao trong bảng xếp hạng mà tôi biết tên đều là các giáo sư nổi tiếng, là trưởng các nhóm nghiên cứu mạnh, đã hoặc đang làm việc trong các trường đại học lớn, uy tín của thế giới.
_____ Phóng viên: Thành công của Giáo sư và các đồng nghiệp là lời khẳng định về năng lực của các nhà khoa học nước ta. Giáo sư có nghĩ vậy không?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Năm 2020 có 22, năm 2021 có 28, năm nay có 34 nhà khoa học Việt Nam làm việc cơ hữu trong nước có tên trong danh sách xếp hạng 100.000 nhà khoa học. Liên tục đều có sự gia tăng theo các năm và năm nay tăng 6 người – hơn 20% so với năm ngoái. Trong đó có những nhà khoa học xếp hạng rất cao, top 100 thế giới trong lĩnh vực.
Chúng ta có thể thấy trong bảng xếp hạng này có những nhà khoa học trong nước có thứ hạng cao không hề thua kém so với các Giáo sư Việt kiều có tên tuổi đang làm việc tại các trường đại học lớn của nước ngoài, trong khi điều kiện vật chất cho nghiên cứu ở trong nước còn khó khăn và thiếu thốn hơn rất nhiều.
NĂM 2020 CÓ 22, NĂM 2021 CÓ 28, NĂM NAY CÓ 34 NHÀ KHOA HỌC VIỆT NAM LÀM VIỆC CƠ HỮU TRONG NƯỚC CÓ TÊN TRONG DANH SÁCH XẾP HẠNG 100.000 NHÀ KHOA HỌC
GS. Nguyễn Đình Đức
Trong hoàn cảnh đó, việc ngày càng có nhiều nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng của thế giới là rất đáng tự hào, là sự nỗ lực phi thường của nhà khoa học. Kết quả này khẳng định sự lớn mạnh của tầng lớp trí thức, của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ với trình độ và các hướng nghiên cứu tiên tiến của thế giới.
Đối với những nhà khoa học lại cũng là nhà giáo như chúng tôi, sự ghi nhận này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở chỗ: thành công của thầy là niềm tự hào của các học trò, sẽ là sự động viên khích lệ các bạn trẻ vững bước trên con đường đã chọn với sự tự tin – miệt mài và cố gắng hết mình thì có thể đạt được đỉnh cao trong khoa học.
_____ Phóng viên: Giáo sư đánh giá như thế nào về môi trường nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Đảng và Nhà nước ta đã xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực, là nền tảng phát triển kinh tế xã hội. Kinh nghiệm của một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ, Trung Quốc cho thấy họ đã đầu tư cho khoa học công nghệ rất mạnh, nhờ đó đã tận dụng và nắm bắt được những cơ hội và phát triển vượt bậc trong cách mạng công nghệ 3.0. Tôi cho rằng cách mạng công nghệ 4.0 là một cơ hội tuyệt vời để Việt Nam cất cánh, và khoa học công nghệ cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chiếc đũa thần để dân tộc ta nắm bắt được những cơ hội của cuộc cách mạng này để bứt phá vươn lên.
TÔI CHO RẰNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 LÀ MỘT CƠ HỘI TUYỆT VỜI ĐỂ VIỆT NAM CẤT CÁNH, VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CÙNG VỚI NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHÍNH LÀ CHIẾC ĐŨA THẦN ĐỂ DÂN TỘC TA NẮM BẮT ĐƯỢC NHỮNG CƠ HỘI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG NÀY ĐỂ BỨT PHÁ VƯƠN LÊN
GS. Nguyễn Đình Đức
Hoạt động khoa học công nghệ thời gian qua ở Việt Nam ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi. Sự ra đời của Luật Khoa học Công nghệ, của các chương trình Khoa học công nghệ lớn, các Quỹ phát triển Khoa học công nghệ, cũng như các chính sách hỗ trợ nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu mạnh và mới đây nhất là Luật Giáo dục Đại học sửa đổi đã nhấn mạnh đến tự chủ đại học, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học phát huy tối đa các nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ, nhờ vậy, hoạt động khoa học công nghệ đã có những bước phát triển đột phá rất đáng tự hào. Ví dụ công bố quốc tế của Việt Nam từ năm 2020 đã tăng vượt bậc. Nếu năm 2011, Việt Nam chỉ có gần 1.600 công bố khoa học trên các tạp chí ISI thì sau 10 năm, đến năm 2020, con số này đã tăng gần 8 lần, đứng thứ 49 thế giới và thứ 3 trong khu vực ASEAN.
Hoạt động khoa học công nghệ nước ta cũng hướng tới thực tiễn nhiều hơn. Trước kia, nhiều đề tài nghiên cứu làm xong cất ngăn kéo nhưng giờ yêu cầu phải gắn liền với thực tiễn. Chính vì thế, đã có nhiều đề tài giải quyết thành công những yêu cầu của thực tiễn và doanh nghiệp như một số kết quả trong lĩnh vực chuyển đổi số, truyền thông (5G), nông nghiệp, dược phẩm, công nghệ sinh học… hoặc như trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe – chúng ta cũng đã có những thành công tuyệt vời về ghép tạng. Những thành tựu đó cho thấy Việt Nam có những kết quả nghiên cứu không thua kém so với thế giới.
Các chính sách về quản lý khoa học công nghệ cũng ngày càng được đổi mới, giảm thủ tục hành chính, tăng tính tự chủ và khoán từng phần, từ đó ngày càng thúc đẩy hiệu quả các hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những đổi mới, xung quanh hoạt động khoa học công nghệ cũng còn những tồn tại hạn chế. Tỷ lệ % GDP đầu tư cho Khoa học công nghệ ở Việt Nam còn thấp. Việc triển khai các chủ trương của Đảng còn chậm và nhiều chính sách đã ban hành chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn chưa thống nhất và chồng chéo giữa các bộ ngành. Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai còn nhỏ giọt, cầm chừng. Chưa chú trọng và chưa đầu tư đúng mức cho các nhóm nghiên cứu mạnh để phát triển thành các nhóm nghiên cứu quốc tế. Chính sách đãi ngộ, thu hút và đầu tư cho những nhà khoa học tài năng, nhất là hỗ trợ các nhà khoa học trẻ còn chưa thỏa đáng, chưa có những đột phá trong chính sách về Khoa học công nghệ.
Vì vậy, để khoa học công nghệ Việt Nam phát triển đột phá trong thời gian tới, để có thêm nhiều trường đại học, nhiều nhà khoa học Việt Nam được xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín và hội nhập mạnh mẽ với thế giới, chúng ta cần chú trọng tạo những thông thoáng trong cơ chế chính sách, đầu tư cho khoa học công nghệ thỏa đáng, dài hơi. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho con người, cho các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn, đầu tư xây dựng và phát triển các hướng nghiên cứu mới tiên tiến, và đặc biệt là đầu tư cho các nhóm nghiên cứu mạnh – tế bào trong hoạt động nghiên cứu và triển khai.
Nhóm nghiên cứu mạnh cũng chính là “tổ ấm” – là môi trường để thu hút các nhà khoa học đầu ngành và các nhân tài trong và ngoài nước đến làm việc. Nhóm nghiên cứu có vai trò cực kỳ quan trọng từ triển khai nghiên cứu đến đào tạo, chế thử, kết nối nhà khoa học với Nhà nước, doanh nghiệp và là cái nôi thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế và sản phẩm mới, và còn là môi trường để thúc đẩy khởi nghiệp.
Vì vậy, một trong những giải pháp để phát triển tiềm lực, nâng cao chất lượng hoạt động khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, để khoa học công nghệ thực sự là “chiếc đũa thần” đưa Việt Nam sánh vai với các nước năm châu, là phải chú trọng phát triển số lượng và nâng cao chất lượng tiềm lực khoa học công nghệ – xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh phải được xem như một trong những giải pháp đòn bẩy đột phá.
NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH CHÍNH LÀ “TỔ ẤM” – LÀ MÔI TRƯỜNG ĐỂ THU HÚT CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐẦU NGÀNH VÀ CÁC NHÂN TÀI TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN LÀM VIỆC
GS. Nguyễn Đình Đức
_____ Phóng viên: Theo Giáo sư, các cán bộ nghiên cứu trẻ có những ưu điểm và hạn chế gì? Thầy kỳ vọng gì ở thế hệ những nhà khoa học trẻ nước ta hiện nay?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Các cán bộ trẻ khoa học trẻ ngày nay có nhiều điều kiện thuận lợi so với thế hệ chúng tôi rất nhiều: được đào tạo bài bản, rất nhiều bạn trẻ đã có thời gian học tập hoặc tu nghiệp, bồi dưỡng ở nước ngoài; có trình độ chuyên môn vững vàng, ngoại ngữ tốt; điều kiện học liệu, cơ sở vật chất tốt; khả năng hội nhập cao.
Các cán bộ trẻ ngày nay, trong đó có các nhà khoa học trẻ đều rất năng động, nắm bắt và thích ứng nhanh với những đổi mới và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Mặt khác, sống trong nền kinh tế thị trường mở cửa nên cũng “thực tế” hơn.
Cái mà tôi mong muốn ở các bạn trẻ là sự kiên trì và bền bỉ. Làm khoa học thì không “ăn xổi” được, lại càng không thể chạy theo hư danh. Đã làm khoa học là phải dấn thân và đam mê, dám chấp nhận thiệt thòi, hy sinh.
Tôi tin là các bạn trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước sẽ luôn giữ được hoài bão và khát vọng cống hiến, khát vọng chấn hưng đất nước; rèn đức luyện tài, nghiêm túc và cần cù trong công việc; hội nhập với các chuẩn mực và trình độ quốc tế; nắm bắt được những cơ hội của thời đại, của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 để sáng tạo, khởi nghiệp, xứng đáng là lực lượng chủ lực xây dựng và kiến thiết đất nước, làm rạng danh cho Tổ quốc.
LÀM KHOA HỌC THÌ KHÔNG “ĂN XỔI” ĐƯỢC, LẠI CÀNG KHÔNG THỂ CHẠY THEO HƯ DANH. ĐÃ LÀM KHOA HỌC LÀ PHẢI DẤN THÂN VÀ ĐAM MÊ, DÁM CHẤP NHẬN THIỆT THÒI, HY SINH
GS. Nguyễn Đình Đức
_____ Phóng viên: Với kinh nghiệm gần 40 năm học tập bền bỉ và nghiên cứu khoa học, đặc biệt với nhiều nghiên cứu quan trọng mang tính tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về vật liệu mới và cơ học, vậy Giáo sư có thể chia sẻ thêm về lĩnh vực này?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của tôi và nhóm nghiên cứu là các lĩnh vực liên quan đến vật liệu và kết cấu composite tiên tiến: như composite polyme nhiều pha; vật liệu carbon-carbon siêu bền nhiệt; vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi (FGM), vật liệu nano; vật liệu mới làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời; vật liệu composite áp điện có cơ lý tính biến đổi; vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ); các vật liệu composite có tính năng cơ lý cao sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt; các vật liệu tiên tiến nhất như penta-graphene đáp ứng yêu cầu lưu trữ thông tin lớn của cách mạng công nghiệp 4.0; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và machine learning trong tối ưu hóa vật liệu và kết cấu composite,…
Đây đều là các hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại, lại vừa có tính ứng dụng thực tiễn cao. Vừa hội nhập với cộng đồng khoa học quốc tế, lại vừa đáp ứng yêu cầu định hướng phục vụ thực tiễn ở Việt Nam.
Để có được những thành công như ngày hôm nay, tôi đã phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, thiếu thốn trăm bề; nhưng nhờ có lòng kiên trì, nghị lực bền bỉ, cũng như sự ủng hộ của nhà trường, đồng nghiệp, tôi đã vượt qua được những khó khăn thử thách, xây dựng được nhóm nghiên cứu mạnh, xây dựng được phòng thí nghiệm mới, khoa mới, ngành mới: là phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông ở Trường Đại học Công nghệ, ngành Civil Engineering ở Trường Đại học Việt Nhật, Ngành Tự động hóa và Tin học ở Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội và đào tạo được nhiều thế hệ học trò giỏi giang, thành tài. Trải qua 40 năm bền bỉ với nghề, tôi đã xây dựng được trường phái khoa học về vật liệu composite tiên tiến, có uy tín ở Đại học Quốc gia Hà Nội, được biết đến trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước.
_____ Phóng viên: Là nhà giáo tận tâm và có nhiều năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục đào tạo, nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Giáo sư có điều gì trăn trở về nền giáo dục Việt Nam?
“NGHỀ DẠY HỌC LÀ NGHỀ CAO QUÝ NHẤT TRONG CÁC NGHỀ CAO QUÝ” SỐ PHẬN ĐÃ RUN RỦI TÔI TRỞ THÀNH NHÀ GIÁO VÀ TÔI CẢM THẤY VINH DỰ VÀ TỰ HÀO VÌ ĐIỀU ĐÓ
GS. Nguyễn Đình Đức
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Số phận đã run rủi tôi trở thành nhà giáo và tôi cảm thấy vinh dự và tự hào vì điều đó. Nhân ngày 20/11, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và tri ân tới các thầy cô giáo đã dạy dỗ chúng tôi nên người, và cũng xin kính chúc các thầy cô giáo – các đồng nghiệp của tôi – mạnh khỏe, hạnh phúc, và luôn giữ được ngọn lửa nhiệt huyết trong sự nghiệp trồng người.
Điều mà tôi luôn trăn trở là giáo dục Việt Nam hãy thực hiện thật tốt việc “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Mọi hoạt động dạy và học, nghiên cứu khoa học phải thực chất, hội nhập với trình độ, chất lượng và chuẩn mực quốc tế. Nhà giáo phải có tâm và tận tụy với học trò, khơi dậy được tiềm năng của các học trò, thắp sáng lên được năng lực tư duy và sáng tạo của mỗi học sinh để các em thành công và thành tài trong cuộc đời. Và tôi nghĩ đó cũng là những nội hàm giản dị, chân thực nhất của triết lý và mục tiêu giáo dục mà tôi hằng ấp ủ.
_____ Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite. Giáo sư Đức đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, tác giả của 2 bằng phát minh sáng chế. Giáo sư Đức cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.
Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã từng là giáo sư nghiên cứu và thỉnh giảng của các trường đại học danh tiếng của thế giới như: Moscow State University; Mechanical Engineering Research Institute of Russian Academy of sciences (LB Nga); Japan Advanced Institute of Sciences and Technology (JAIST – Nhật Bản); University of Birmingham (Vương quốc Anh), Sejong University (Hàn Quốc).
Liên tục 4 năm liền, năm 2019, 2020, 2021, 2022 Giáo sư Nguyễn Đình Đức được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong top 10.000 nhà khoa học có chỉ số trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering năm 2022.
Ông cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.
Ngày 11/11/2022, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định tặng Bằng khen cho 400 nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.
Trong số đó, ĐHQGHN có 03 nhà giáo vinh dự được nhận Bằng khen này. Đó là: GS.TS Mai Trọng Nhuận – Chủ tịch Hội đồng Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐHQGHN, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN và GS.TS Lê Ngọc Thành – Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược, ĐHQGHN.
GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc ĐHQGHN, được công nhận chức danh giáo sư khoa học trái đất năm 1996, nhà giáo ưu tú năm 2008; đã từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo, quản lý trường đại học thành viên của ĐHQGHN từ năm 1996 và giữ chức Giám đốc ĐHQGHN từ tháng 10/2007; Bí thư Đảng ủy ĐHQGHN từ tháng 9/2011. GS.TS Mai Trọng Nhuận đã có nhiều đóng góp trong đề xuất các chủ trương đổi mới và giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả mọi hoạt động, thực hiện được mục tiêu phát triển ĐHQGHN từng bước đạt chuẩn quốc tế. Trong đó có đổi mới quản trị đại học theo sản phẩm đầu ra; xây dựng, phát triển ngành và chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế; kiểm định chất lượng theo chuẩn khu vực và quốc tế… Với những cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học cho đất nước nói chung và ĐHQGHN nói riêng, GS.TS Mai Trọng Nhuận đã được nhận: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (1998), Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (2002), Huân chương lao động hạng Ba (2005), Giải thưởng Cành cọ hàn lâm của Chính phủ Cộng hòa Pháp (2007), Bằng khen của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (2009, 2012), nhiều năm liên tiếp đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp và các danh hiệu cao quý khác.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, tác giả của 2 bằng phát minh sáng chế. GS. Nguyễn Đình Đức là thành viên Hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới. Ông từng là giáo sư nghiên cứu và thỉnh giảng của các trường đại học danh tiếng của thế giới như: Moscow State University; Mechanical Engineering Research Institute of Russian Academy of sciences (Liên bang Nga); Japan Advanced Institute of Sciences and Technology (JAIST – Nhật Bản); University of Birmingham (Vương quốc Anh), Sejong University (Hàn Quốc). Ông là người đề xuất và mở chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Cơ kỹ thuật; sáng lập Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, Trường ĐH Công nghệ); Xây dựng đề án và mở ngành Kỹ thuật hạ tầng, Trường ĐH Việt Nhật; Mở ngành Tự động hóa và Tin học, Trường Quốc tế, ĐHQGHN. Ông đã kiên trì và bền bỉ góp phần tích cực và hiệu quả để thúc đẩy lĩnh vực Engineering của ĐHQGHN được xếp hạng 386 trong bảng xếp hạng thế giới, đào tạo nhiều TS trẻ tài năng trong lĩnh vực này ở ĐHQGHN và cho các trường đại học khác trên cả nước. Liên tục 4 năm liền, năm 2019, 2020, 2021, 2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong top 10.000 nhà khoa học có chỉ số trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering năm 2022. Ông cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời. Năm 2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng nhì của Chủ tịch nước.
GS.TS Lê Ngọc Thành hiện là Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược, ĐHQGHN. Ông tốt nghiệp đại học ngành Bác sĩ đa khoa Ngoại Sản năm 1984; Thạc sĩ, BS Nội trú năm 1987; Tiến sĩ năm 2001 tại Trường ĐH Y Hà Nội. Ông được trao tặng Huân chương lao động hạng Nhì năm 2013, được công nhận chức danh Giáo sư Y học năm 2015, phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân năm 2017. GS.TS Lê Ngọc Thành đã từng trải qua các chức vụ lãnh đạo, quản lý như: Trưởng khoa Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Việt Đức; Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam; Ủy viên BCH Hội Phẫu thuật viên Tim mạch châu Á; Tổng biên tập Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Công nghệ Sự sống – một trong các Hội đồng chuyên môn của ĐHQGHN, Giám đốc Bệnh viện E kiêm Giám đốc Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện… Vừa qua, GS.TS Lê Ngọc Thành đã đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.