GS.TSKH NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC VÀ KỶ NIỆM VỀ GS.VS NGUYỄN VĂN ĐẠO

GS.VS Nguyễn Văn Đạo là giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN, Chủ tịch Hội Cơ học VN, Giải thưởng HCM về KHCN.

Nhân 85 năm ngày sinh của cố GS: 10/8/1937 – 10/8/2022.

Tháng 2/2005, từ Phó Ban Đào tạo, tôi được bổ nhiệm làm Phó Ban rồi Trưởng Ban KHCN của ĐHQGHN, và được may mắn làm việc trực tiếp với GS Nguyễn Văn Đạo từ ngày ấy.

Ngày đó, GS Nguyễn Văn Đạo đã thôi Giám đốc. Giám đốc đương kim là GS Đào Trọng Thi và GS Nguyễn Văn Đạo làm Chủ tịch Hội đồng Khoa học Đào tạo của ĐHQGHN (tôi làm Thư ký Hội đồng); GS Nguyễn Văn Đạo cũng còn làm Giám đốc Quỹ NCCB trong KHTN (tiền thân của NAFOSTED ngày nay), và Ban KHCN giúp Chủ tịch Quỹ trong việc điều hành, xét duyệt kinh phí và tài trợ cho các đề tài, cho các nhà khoa học đi dự HN, Hội thảo ở trong và ngoài nước.

Những lần GS Nguyễn Văn Đạo chủ trì Hội đồng KHĐT, các GS đều tham gia đông đủ, sôi nổi và khi GS phát biểu cả hội nghị im phăng phắc.

Tôi đã đóng quyển kết luận 10 phiên họp Hội đồng KHĐT do GS Nguyễn Văn Đạo chủ trì và còn lưu trữ đến ngày nay.

Những chủ đề của các phiên họp hội đồng KHĐT ngày ấy như xếp hạng đại học; Tiêu chí ĐH nghiên cứu; đào tạo Tài năng, CLC; Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học; phát triển liên kết đào tạo quốc tế; xây dựng tiêu chí phát triển đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành, đầu đàn,…đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Là Chủ tịch Hội Cơ học VN, GS đã thành lập ở ĐHQGHN Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng Cơ học để đào tạo đội ngũ giảng viên ngành cơ cho cả nước, lúc đầu chỉ có 2 biên chế. Khi thành lập trường, năm 2004, Trung tâm này về ĐHCN và đã phát triển thành Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa. Tôi làm Chủ nhiệm Bộ môn – Trưởng PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Khoa này. Sau đó năm 2018, tôi đã thành lập tiếp Khoa Xây dựng Giao thông trên nền tảng Cơ học. Và nay Khoa Cơ kỹ thuật và Tự động hóa và Khoa XDGT đã trở thành 2 Khoa hùng mạnh của ĐHQGHN với quy mô đào tạo lên hàng nghìn sinh viên mỗi năm. Ngành Cơ học nhờ đó tiếp tục phát triển và lớn mạnh và đến ngày nay ngành Cơ kỹ thuật lọt top 500, ngành Engineering của ĐHQGHN lọt top 386 trong bảng xếp hạng QS của thế giới – hương hồn GS có thể tự hào về ngành mình và thế hệ kế cận.

Không chỉ là nhà lãnh đạo có tầm và tài năng của ĐHQGHN, GS Nguyễn Văn Đạo là trí thức lớn, tiêu biểu của cả nước. Tôi vinh dự tham gia BCH TW MTTQVN khóa 5 cùng GS Nguyễn Văn Đạo (1999-2004) khi đó GS là Chủ nhiệm Ủy ban liên lạc với người Việt Nam ở NN, cuộc họp nào với lãnh đạo Đảng và Nhà nước, GS cũng được BTC trân trọng bố trí ngồi ngay cạnh các nguyên thủ QG, trong khi các Bộ trưởng còn ngồi cách khá xa. Đủ thấy tâm , tầm vóc và ảnh hưởng của GS với nước nhà và vị thế của ĐHQGHN.

Còn nhớ, tôi khi đó là Bí thư chi bộ Ban KHCN và Tạp chí Khoa học, và GS Nguyễn Văn Đạo là đảng viên của chi bộ, nhưng lần sinh hoạt nào, GS cũng tham dự rất đầy đủ và gương mẫu. Lần cuối trước khi mất, là GS bay từ HCM ra HN để dự cuộc họp thường kỳ của chi bộ vào thứ 3 tuần sau, thì chiều tối thứ 7, GS bị tai nạn và qua đời (khi tôi đến nhà riêng thắp hương cho GS, Giấy mời họp chi bộ do tôi ký vẫn còn trên bàn làm việc của GS như kỷ vật những ngày làm việc cuối cùng của thầy). Đóng góp quan trọng nhất của GS với tư cách trí thức cho các văn kiện của Đảng những năm ấy, là, theo GS Nguyễn Văn Đạo – Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam (thêm chữ dân tộc Việt Nam, không chỉ tiên phong của mỗi giai cấp công nhân) – câu này sau đó đã được sửa đổi và đưa vào điều lệ.

Với tôi, lúc đầu chưa hiểu, GS rất khắt khe, nhưng càng làm việc lâu, càng gần gũi, GS càng hiểu tôi, càng thương càng quý. GS là người công tâm, thẳng thắn, yêu và mến mộ nhân tài – “yêu ai như lửa cháy, ghét ai như bão giông”. Là Chủ tịch HĐ KH ĐT của ĐHQGHN và cũng là Chủ tịch Hội Cơ học VN – với tôi GS còn là đồng nghiệp. Đi công tác nước ngoài ở đâu về GS cũng chuyển cho tôi tài liệu để tôi lĩnh hội và lưu giữ – như muốn gửi gắm niềm tin và hy vọng. Chính GS là người ngay tại giữa Đại hội Đảng bộ 2005 đã đề xuất và giới thiệu tôi tham gia Đảng ủy ĐHQGHN (ngày đó Ban KHCN không có cơ cấu Đảng ủy; tất nhiên tôi đã cảm ơn và từ chối, nhưng tôi rất biết ơn GS vì điều đó).

Được gần gũi và làm việc gần GS Nguyễn Văn Đạo là một vinh dự và may mắn lớn với tôi. Tôi cũng may mắn là người duy nhất còn ở nhà điều hành VNU và làm việc đến nay với đủ 6 đời Giám đốc – cả một kho tư liệu sống về ĐHQGHN.

GS Nguyễn Văn Đạo luôn nói với chúng tôi, ĐHQGHN có tầm vóc xứng đáng hay không, là nhờ ở đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành. Theo GS kể lại, ngày mới thành lập ĐHQGHN không phải ai cũng hiểu và ủng hộ, trong đó có nguyên CTN TĐL chưa hiểu và chưa ủng hộ mô hình ĐHQG, nhưng GS Nguyễn Văn Đạo đã dẫn một đoàn 5 GS nổi tiếng như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng,…đến thẳng nhà riêng gặp CTN, và sau gần 3 giờ đàm đạo, CTN đã được thuyết phục. Ngày ĐHQGHN có dấu Quốc huy, GS và mọi người cầm dấu trên tay cảm động rưng rưng – dấu rơi xuống nền gạch, nên con dấu đồng đầu tiên của ĐHQGHN hơi méo chút là vì lẽ đó.

Về con người, GS Nguyễn Văn Đạo cũng là người nóng tính, rất yêu dân ca quan họ, yêu thế hệ trẻ và làm việc không biết mệt mỏi, tâm huyết với ĐHQGHN, với ngành Cơ học VN và đầy hoài bão. Còn nhớ năm 2005, tháp tùng GS đi Hàn Quốc, trên đường từ sân bay về , GS đã đến thẳng Bộ KHCN để bàn bạc về việc nghiên cứu chế tạo sản xuất máy bay tại VN.

Năm 2008, ĐHQGHN có tổ chức hội thảo khoa học kỷ niệm 1 năm ngày mất của GS ở Hội trường Lê Văn Thiêm, 19 Lê Thánh Tông HN, tôi có vinh dự được chỉ định làm Trưởng Ban Tổ chức của Hội thảo này.

Nhân 85 năm ngày sinh GS Nguyễn Văn Đạo, Giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN, Chủ tịch đầu tiên Hội Cơ học Việt Nam, xin viết lên đây mấy dòng này như một nén tâm hương tưởng nhớ đến Thầy – thế hệ trí thức vàng của Việt Nam.

Trong ảnh: Tôi và anh Hoàng Dũng (khi đó là Trưởng ban KHCN VNU HCM, chị Hà – nay là Vụ phó vụ KHTN-XH của Bộ KHCN) trong chuyến tháp tùng GS Nguyễn Văn Đạo sang Hàn Quốc năm 2005. Trong đó có ảnh GS Nguyễn Văn Đạo đang đàm đạo với President viện KIST và ảnh GS Nguyễn Văn Đạo đang đàm đạo với Mr. Kim, President Quỹ Nghiên cứu Phát triển của Hàn Quốc thời ấy).

Mới đó, mà đã 17 năm !

Nguyễn Đình Đức

GS Nguyễn Đình Đức: Những thách thức và bất cập trong tự chủ đại học

(Dân trí) – Cần sử dụng phương pháp đối sánh trong đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Không thể xem giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục như phương pháp duy nhất đánh giá chất lượng giáo dục đại học.

Đó là khẳng định của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội khi nói về tự chủ đại học.

Sáng nay 4/8, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị Tự chủ đại học năm 2022. Hội nghị nhằm đánh giá kết quả đã đạt được trong triển khai tự chủ đại học, thẳng thắn nhìn nhận khó khăn, vướng mắc và xác định những nguyên nhân trọng yếu, từ đó định hướng lộ trình cùng những việc cần làm trong thời gian tới.

Để hiểu rõ hơn về tự chủ đại học, Dân trí xin giới thiệu bài viết của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội về vấn đề này.

Tự chủ đại học: Các trường quanh năm phục vụ việc khám sức khỏe - 1
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội.

Tự chủ đại học là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, để hiểu và vận dụng tự chủ đại học như thế nào để áp dụng khả thi cho các trường đại học ở Việt Nam hiện nay là vấn đề rất lớn và hệ trọng, không chỉ liên quan trực tiếp đến các trường đại học, đến hệ thống giáo dục đại học mà còn trực tiếp liên quan đến đội ngũ trí thức tinh hoa, đến giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao và hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo – những lĩnh vực then chốt nhất và là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.

Các trường đại học được cởi trói?

Không thể phủ nhận những thành tựu đổi mới của Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018. Xuyên suốt Luật này, theo tôi có 3 điểm mới quan trọng nhất là: Tự chủ đại học; Kiểm định chất lượng giáo dục đại học và Khuyến khích nâng cấp các trường đại học thành đại học.

Về tự chủ đại học: Cảm giác đầu tiên là các trường đại học được cởi trói (nếu đáp ứng đủ các điều kiện tự chủ), được tự quyết nhiều hơn. Thành quả của chính sách này là các trường đại học phát huy và thu hút được tối đa các nguồn lực, có sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh, công bằng hơn giữa các trường công và tư.

Trước đây, các trường công lập dàn hàng ngang mà tiến, thì nay, tự chủ đại học đã giúp quá trình “chọn lọc tự nhiên” giữa các trường được diễn ra công bằng hơn. Trước đây chỉ có các trường lớn, công lập được nhắc đến và xếp hạng, nay các trường dân lập cũng đã có tên tuổi,….Đây là một điểm tích cực rất đáng được ghi nhận.

Tuy nhiên, ngay cả văn bản Luật và việc triển khai thực hiện Luật cũng đã bộc lộ nhiều nghịch lý, hạn chế, bất cập.

Về hội đồng trường: Việc thành lập hội đồng trường trong các đại học công lập, bên cạnh BGH và Đảng ủy, với các chức năng được quy định trong Luật, tưởng là rất lớn, nhưng lại rất hình thức. Thậm chí một số trường đã bắt đầu có sự mẫu thuẫn giữa Chủ tịch Hội đồng và Hiệu trưởng, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ.

Với các đại học, Điều 15 khoản 2 quy định các trường thành viên thực hiện tự chủ ở mức độ và trong mối quan hệ được quy định trong Quy chế tổ chức hoạt động của đại học. Như vậy, để tạo nên sức mạnh của đại học, chỉ cần hội đồng đại học là đủ.

Nhưng Luật lại quy định ở điều khoản khác, là tất cả các trường đại học thành viên đều phải thành lập hội đồng trường, thế là xảy ra 2 trường hợp – hoặc là hội đồng các trường thành viên chỉ là hình thức, hoặc hội đồng trường thành viên sẽ thực hiện đầy đủ quyền được Luật cho phép – và có thể có những quyết sách khác với chủ trương của đại học.

Như vậy, với tư duy logic và sự biện chứng, thì Luật này sẽ kéo theo hiện tượng tất cả các mũi tên đều quy về một hướng để tạo nên một hợp lực lớn ngày càng ít xảy ra. Thậm chí trường thành viên tự chủ có quyền quyết lớn hơn, mạnh hơn cả quyền của đại học.

Vì vậy Luật này thực chất lại đang làm suy yếu mô hình đại học 2 cấp – hệ thống đại học, nhất là 2 ĐH Quốc gia.

Vì vậy, cần xem lại, sửa lại cho rõ ràng và cụ thể hơn, thực tế hơn quy định về việc thành lập hội đồng trường của các đại học công lập trong Luật, cũng như quy định về tự chủ của các trường đại học trong hệ thống đại học.

Với 2 ĐH Quốc gia (ĐHQG): Vì theo Luật, trước hết cũng là đại học, nên không nằm ngoài xu hướng trên trong quá trình tự chủ theo quy định của Luật như hiện nay. Hơn nữa, Điều 8 của Luật quy định Đại học quốc gia có quyền tự chủ cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy, và hoạt động theo chức năng và quyền hạn do Chính phủ quy định.

Nhưng trên thực tế, có 2 quyền lớn nhất là Tổ chức cán bộ và Đào tạo thì không khác gì các trường đại học khác. Nhẽ ra với truyền thống, đội ngũ CSVC và con người hùng hậu và theo Luật, về mặt học thuật, ĐHQG phải được ban hành Quy chế riêng, có sự khác biệt với Quy chế của Bộ. Nhưng Bộ lại ban hành Quy chế áp cho tất cả các trường, trong đó các trường và ĐHQG phải thực hiện chỉ có cao hơn, không có sự khác biệt.

Như vậy thì trong trường hợp này, quyền của Bộ vô hình chung đã vô hiệu hóa quyền tự chủ cao về học thuật của ĐHQG.

Nói nôm na là “Thủ kho to hơn Thủ trưởng”- quyền của Bộ trưởng đã cao hơn quyền của Luật và Chính phủ cho phép 2 ĐHQG có quyền tự chủ cao.

Tưởng như nắn nót, nhưng vô hình chung đã vô hiệu hóa sự sáng tạo và tiên phong, dẫn dắt của ĐHQG trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam – điều mà Bộ Chính trị khi thành lập 2 ĐHQG đã kỳ vọng.

Do đó Điều 8 về ĐHQG cần được vi phân ra cụ thể và chi tiết hơn nữa tự chủ của 2 ĐHQG trong Luật, để tránh tình trạng chỉ oai trên giấy tờ mà không triển khai được hiểu quả trên thực tế. Luật cho phép nhưng không cụ thể và vì vậy, vẫn bị trói bởi các văn bản dưới Luật.

Quanh năm suốt tháng phục vụ việc “khám sức khỏe”

Về Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Đây là chủ trương đúng đắn. Nhưng không đúng ở chỗ trong quá trình triển khai quy định trong Nghị định 99 hướng dẫn thực hiện Luật và Nghị định 81 về học phí, xem việc có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục (được xem như “Giấy khám chứng nhận sức khỏe”) là phương pháp duy nhất để đánh giá chất lượng giáo dục đại học, lấy đó làm tiêu chí để xác định được tự chủ, từ đó để được nâng học phí cao theo định mức kinh tế kỹ thuật là không hoàn toàn chính xác và không đầy đủ, và đang bị lạm dụng.

Do hiểu và quy định như vậy, nên các trường đua nhau kiểm định chương trình đào tạo, thành phong trào và có tính đối phó từ các trường. Các trung tâm kiểm định làm việc ngày đêm hết công suất cũng không đủ phục vụ.

Các trường cũng buông, thôi thì tổ chức kiểm định nào cũng được, miễn là mau mau có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng (KĐCL) để còn được thu học phí cao.

Và có một bất cập là: một trường nhỏ, mới, có ít chương trình đào tạo thì dễ đạt kiểm định xong 100% và xem như đủ sức khỏe, có thể được tự chủ. Trong khi các đại học lớn, như ĐHQGHN có đến 500 chương trình đào tạo các bậc ĐH, ThS, TS (riêng ĐH đã là 143 chương trình), mà mỗi năm tối đa cũng chỉ kiểm định được 15-20 chương trình, và sau đó vòng lặp cứ 5 năm phải kiểm định lại.

Như vậy quanh năm suốt tháng sẽ phục vụ việc “khám sức khỏe”, và khó mà khả thi khi trong 5 năm kiểm định hết tất cả từng ấy các chương trình.

Và sẽ xảy ra xu hướng sẽ ít mở ngành mới, nhóm lại các chuyên ngành, các ngành đã có, để giảm đi số lượng chương trình, từ đó mong sao kiểm định cho hết lượt các chương trình đào tạo.

Trong khi các trường nhỏ, mới, ít chương trình, được kiểm định hết mặc nhiên xem như đủ sức khỏe, đủ điều kiện tự chủ thì các trường lớn như 2 ĐHQG và các đại học được xếp hạng hàng đầu VN trong các bảng xếp hạng quốc tế , các trường đại học nghiên cứu (theo định nghĩa trong NĐ 99 ĐH nghiên cứu phải có 20% GS, PGS và tối thiểu 100 bài ISI/năm) thì lại không có chút lợi thế nào. Đây là chính sách bất cập và không khả thi trong điều kiện VN hiện nay.

Cần sử dụng phương pháp đối sánh trong đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Nên có sự xem xét và điều chỉnh lại cho hợp lý. Không thể xem giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục như phương pháp duy nhất đánh giá chất lượng giáo dục đại học. Trong khi các chương trình đạt yêu cầu khi kiểm định chất lượng hiện nay có tỷ lệ cao như tỷ lệ đạt trong kỳ thi tốt nghiệp THPT.

Đòn “chí mạng” vào mô hình đại học 2 cấp

Nguy hiểm hơn, Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay được nhiều người hiểu là tự quyết, tự hạch toán thu-chi, nên càng nhiều trường tự chủ thì nhà nước càng giảm được đáng kể nguồn ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động của các trường đại học. Đương nhiên học phí các chương trình đào tạo cũng tăng lên đáng kể.

Thu nhập của cán bộ khoa học, cán bộ giảng dạy trong nhiều trường tự chủ nhờ đó mà đã được cải thiện và tăng lên mạnh. Thật nghịch lý là lương tiến sĩ ở trường tự chủ, có thể cao gấp 2-3 lần lương giáo sư hàng đầu ở một đại học công lập.

Về khuyến khích nâng cấp các trường đại học thành đại học: Xin miễn phân tích, chỉ có 1 đề nghị là nên bỏ đi câu này trong Luật giáo dục đại học sửa đổi. Vì theo Luật hiện tại thì là trường đại học tự chủ sướng hơn, nhiều quyền hơn là lên đại học.

Tự chủ của Luật 2018 đã giáng 1 đòn chí mạng vào mô hình đại học 2 cấp – hệ thống các đại học.

Nhiều điểm chồng chéo và chưa phù hợp

Như điều 8 của Luật được hiểu là có quyền tự chủ cao, Giám đốc 2 ĐHQG thực hiện quyền hạn của Chính phủ cho phép, được mở tất cả các ngành, kể cả các ngành khối sức khỏe, sư phạm, thì nay Luật mới điều 3 lại quy định những ngành này thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ GD &ĐT – thế là “tay này thì mở, tay kia thì trói”.

Hoặc như quy định phải mở chương trình đại học 2 khóa ra trường, kiểm định xong mới được mở chương trình thạc sỹ. Thạc sỹ ra trường lại kiểm định xong mới mở chương trình TS là những người làm luật và quy định không có thực tế. Ví dụ ĐH Việt Nhật khi ra đời mở trước 6 chương trình thạc sỹ, 5 năm sau mới mở chương trình đại học. Nhiều ngành khác cũng đào tạo thạc sỹ trước khi đào tạo cử nhân, nhất là trong các trường đại học nghiên cứu.

Lại nhất định phải nói một chút về tuyển sinh: Luật mới quy định việc tuyển sinh là các trường tự chủ – việc của các trường đại học. Với cách diễn đạt này trong Luật, Bộ giũ bỏ được trách nhiệm và áp lực lên Bộ về kỳ thi tuyển sinh đại học.

Nhưng trên thực tế lại không phải như vậy. Để giảm tốn kém các trường đại học vẫn phải sử dụng kết quả thi THPT như một phương thức để tuyển sinh (và Bộ vẫn cầm trịch trong kỳ thi này). Dẫn đến chất lượng tuyển sinh đầu vào đại học có vấn đề như những năm vừa qua và chưa hình dung hết được hệ lụy kéo theo những năm sau về chất lượng đào tạo đại học.

Và để nâng cao chất lượng vì sự phát triển và tồn tại của chính mình (trường ĐH cần phải có thầy giỏi và cả trò giỏi) nên năm nay nhiều trường đã có kỳ thi riêng, lại dẫn đến tình trạng trăm hoa đua nở.

Một thí sinh muốn apply vào nhiều trường, lại phải thi nhiều lần. Hơn nữa lại không có mặt bằng thang đánh giá chung khi tuyển sinh đầu vào, nên trong quá trình đào tạo dễ nảy sinh tiêu cực khi chuyển trường, chuyển ngành ở những ngành hot.

Chỉ với mấy điểm trên, thấy rằng Luật Giáo dục đại học đã sửa, đã có tiến bộ, nhưng phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện. Và đương nhiên, Nghị định 99 và NĐ 81, cũng nên có sự điều chỉnh theo.

Cần lắm tư duy đổi mới và hội nhập, hiểu giáo dục đại học, hiểu thực tế, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Giáo dục VN, trong đó có giáo dục đại học xem ra vẫn còn nhiều việc phải làm – cần học thật, thi thật, nhân tài thật – Cần thực chất về chất lượng và trình độ để chấn hưng đất nước, sánh vai với các nước năm châu.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tính đến ngày 30/6/2022, trong cả hệ thống có 288 cơ sở giáo dục (cơ sở GDĐH và trường cao đẳng sư phạm) hoàn thành báo cáo tự đánh giá (trong đó, 266 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 1 và 22 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 2); 183 cơ sở giáo dục được các tổ chức KĐCLGD trong nước đánh giá ngoài và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục (172 cơ sở GDĐH và 11 trường CĐSP);

778 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận chất lượng, trong đó 470 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn trong nước và 308 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn nước ngoài.

Cả hệ thống có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng cấp cao về đánh giá nghiên cứu và GDĐH Pháp (HCERES) và ASEAN University Network – Quality Assurance (AUN-QA) 38; đồng thời, có 232 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi tổ chức kiểm định nước ngoài.

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH CÁI NÔI PHÁT HIỆN, ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC

MÔ HÌNH CÁC PHÒNG THÍ NGHIỆM, KHOA, BỘ MÔN ĐƯỢC THÀNH LẬP TỪ NHỮNG BƯỚC PHÁT TRIỂN BẰNG NỘI LỰC TRONG NƯỚC CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU, GẮN KẾT CHẶT CHẼ GIỮA ĐÀO TẠO – NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN LÀ MÔ HÌNH MỚI, HIỆU QUẢ VÀ SÁNG TẠO, PHÙ HỢP VỚI CÁC ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM. PHÒNG THÍ NGHIỆM VẬT LIỆU VÀ KẾT CẤU TIÊN TIẾN, TRỰC THUỘC BỘ MÔN CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT XÂY DỰNG GIAO THÔNG, TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ, ĐHQGHN LÀ ĐIỂN HÌNH CHO MÔ HÌNH ĐÓ.

KHỞI NGUỒN TỪ TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI THẦY

Con đường đến với thành công thường không dễ dàng. Khởi đầu với nguồn tài chính bằng “con số 0” để xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến của ĐHQGHN (NNC), năm 2010, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN đã tập hợp, tuyển chọn, dìu dắt những sinh viên đam mê học tập và nghiên cứu khoa học. Ban đầu, nhóm chỉ có thầy và vài trò, nơi làm việc cũng rất đơn sơ, chỉ là phòng làm việc của thầy sau giờ hành chính, giảng đường đã tan học hay quán nước nhỏ bên hè. Nhưng với tâm huyết của người thầy – Trưởng NNC đã tận tâm dìu dắt, chỉ bảo để các em nắm vững kiến thức, không sợ học và còn khơi dậy
được tiềm năng sáng tạo ở các bạn trẻ. “Quan trọng nhất là Trưởng NNC phải cập nhật, hiểu và nắm bắt được những hướng nghiên cứu mới nhất của thế giới để triển khai trong NNC. Trưởng NNC có vai trò định hướng nghiên cứu phù hợp với năng lực và sở trường cho từng nghiên cứu sinh, sinh viên trong nhóm, giao bài tập tính toán, đôn đốc, kiểm tra và thảo luận các kết quả”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết.

Thầy trò cùng nhau cố gắng nỗ lực, miệt mài nghiên cứu. Cứ kiên trì như vậy, công lao của thầy và trò được đền đáp bằng những kết quả nghiên cứu được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín. Đây là nguồn cổ vũ động viên lớn lao đối với thầy và trò, khích lệ sự tự tin và khơi gợi niềm đam mê nghiên cứu khoa học cho những sinh viên khác. Trên cơ sở đó, học trò đến với nhóm nhiều hơn, NNC ngày một đông dần lên. Nhiều em sinh viên trước đây học lực chỉ đạt mức trung bình hoặc khá, nhưng được rèn luyện trong nhóm nghiên cứu, đã trở nên say mê học tập nghiên cứu và sau khi tốt nghiệp đại học đều trở thành sinh viên giỏi và xuất sắc.

CÁI NÔI PHÁT HIỆN, ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI

Mô hình đào tạo của NNC theo hướng cá thể hóa. Điều đó có nghĩa là, trách nhiệm của người đứng đầu NNC rất quan trọng. NNC được tổ chức hoạt động phân cấp theo cơ chế mềm, đứng đầu là các giáo sư, tiếp theo là các tiến sĩ, nghiên cứu sinh rồi đến sinh viên các khóa. “Để nhóm NNC hoạt động hiệu quả trong nghiên cứu, đào tạo đến từng cá nhân, nhóm NNC được chia làm nhiều nhóm nhỏ. Đứng đầu phụ trách mỗi nhóm nhỏ do các tiến sĩ trẻ đảm nhận; chịu trách nhiệm triển khai, đôn đốc các nhiệm vụ khoa học khi được Trưởng nhóm giao phó”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết. Trên cơ sở các hướng nghiên cứu chung, Trưởng NNC là người sẽ giao nội dung, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể cho từng thành viên hoặc cho các nhóm nhỏ dựa trên thế mạnh của họ. Khi nhận được nhiệm vụ từ các GS, các TS trẻ và NCS trong nhóm lại dìu dắt dìu dắt, hỗ trợ cho các em sinh viên. Trong nhóm, những sinh viên năm trên lại có nhiệm vụ giúp đỡ những sinh viên năm dưới mới tham gia vào NNC. Hằng tuần, NNC đều tổ chức seminar khoa học. Đặc biệt, thông qua hoạt động và hợp tác của NNC, các thành viên trong nhóm còn được tham gia các buổi thảo luận, seminar của các GS trong và ngoài nước. Qua đó, những vấn đề mới trong khoa học được đưa ra trao đổi, bàn luận, giải đáp. Điều đó kích thích tính chủ động, trí sáng tạo của các thành viên trẻ.

Để một nhóm nghiên cứu thành công, trước tiên là phải có những người thầy tài năng và tâm huyết dẫn dắt, hai là phải bắt nhịp được theo các nghiên cứu tiên tiến, hiện đại nhất của thế giới. Ba là phải có môi trường đào tạo và nghiên cứu có hàm lượng học thuật cao như ĐHQGHN. Bốn là cần khơi dậy được hoài bão và sự say mê nghiên cứu khoa học của các bạn trẻ. Cuối cùng, rất quan trọng là sự ủng hộ và tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, trang thiết bị và sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường. Đây là những yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công của nhóm nghiên cứu trong trường đại học.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Trong quá trình tham gia NNC, nhiều sinh viên, NCS đã được cử đi thực tập tại các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trường đại học lớn như ĐH Osaka (Nhật Bản), ĐH Birmingham (UK), ĐH Sejong (Hàn Quốc),… Các em trong NNC cũng được tham dự hội thảo khoa học lớn trong nước và quốc tế. Trình độ và kiến thức thực tế của sinh viên, NCS qua đó được nâng cao. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên, NCS có học lực và kết quả nghiên cứu tốt sẽ được giới thiệu chuyển tiếp nghiên cứu sinh hoặc đi làm việc ở nước ngoài. Ngược lại, NNC cũng là môi trường để tiếp nhận các NCS và cán bộ nghiên cứu, TS trẻ của nước ngoài đến trao đổi, nghiên cứu tại Việt Nam. Bên cạnh hoạt động chuyên môn, NNC còn tổ chức những buổi giao lưu khác để tăng cường kết nối các thành viên trong nhóm. Như vậy, có thể thấy, mô hình NNC rất hiệu quả, không chỉ gắn kết việc học với hành mà còn gắn kết các thầy cô, các nhà khoa học với sinh viên, NCS thành một khối thống nhất, trong đó, có sự dìu dắt, chỉ bảo và định hướng, giúp đỡ tận tình từ những người thầy và các thành viên trong nhóm. Trong NNC, mỗi thành viên được làm việc trong môi trường tập thể nhưng được giao nhiệm vụ chuyên môn riêng, được phát triển và thắp sáng tài năng gắn với những năng lực cụ thể của từng cá nhân. Trưởng NNC là người thầy dẫn dắt và thực sự cũng như “người cha đỡ đầu” cho các thành viên trong nhóm. Nó khắc phục được mối quan hệ lỏng lẻo giữa các sinh viên với nhau và các thầy cô giáo trong mô hình đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học hiện nay. Hơn thế, mô hình NNC còn chú trọng giáo dục nhân cách, tinh thần làm việc nhóm, sự hợp tác và các kỹ năng mềm cho NCS, sinh viên một cách hiệu quả. NNC chính là mô hình đào tạo các tài năng theo hướng cá thể hóa và phù hợp với sự chuyển đổi của giáo dục đại học trong bối cảnh CMCN 4.0.

Đến nay, hầu hết các NCS, sinh viên trong nhóm nghiên cứu khi tốt nghiệp đều trở thành các kỹ sư, TS giỏi, đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Một số học trò thành đạt và xuất sắc đã tỏa đi muôn nơi, công tác ở các trường đại học khác nhau trong cả nước. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, điểm đặc biệt là phần lớn các học trò trong nhóm nghiên cứu đều là các em ở các tỉnh xa, nhà nghèo; trong số đó, có những em hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn. Điều đáng trân trọng là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện lúc đầu thiếu thốn về kinh phí, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm.

Liên tiếp trong 3 năm 2019, 2020, 2021, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã được tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố lọt vào top 10.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng trong nghiên cứu xuất sắc nhất của thế giới. Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, năm 2021, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5949 thế giới, và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering.
Ngày 9/2/2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã vinh dự được Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng nhì vì những đóng góp xuất sắc của ông trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Sự thành công của mô hình này đã cho thấy sức mạnh ưu việt của NNC mạnh trong công tác đào tạo sinh viên, NCS kết hợp với nghiên cứu khoa học để tạo ra nhiều nhân tài trẻ tuổi cho đất nước. Những trí thức trẻ được đào tạo và trưởng thành trong các NNC mạnh “made in Việt Nam 100%” như vậy là nguồn nhân lực chất lượng cao và chính là những nhân tố mới đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

TIẾP CẬN NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỚI, HIỆN ĐẠI

Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, để thành công, thì một trong những yếu tố quan trọng nhất của NNC là phải nắm bắt và theo kịp được những hướng nghiên cứu hiện đại nhất của thế giới. Đối với nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh là các lĩnh vực về composite, vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi và vật liệu nano. NNC cũng là cơ sở nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực kết cấu tiên tiến chế tạo từ các vật liệu nano ứng dụng làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng, vật liệu áp điện có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ), các vật liệu mới composite có tính chất đặc biệt sử dụng trong các môi trường điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN. Bên cạnh các hướng nghiên cứu hiện nay, chiến lược phát triển của NNC và tập thể PTN cũng như Bộ môn Xây dựng Giao thông trong những năm tới đây là đi vào những lĩnh vực nghiên cứu hiện đại và gắn với phục vụ thực tiễn là: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu) và Machine learning (với những từ khóa là thông minh, trí tuệ nhân tạo).

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH LÀ TẾ BÀO CỦA HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ nhận thức: “NNC có thể lúc mạnh, lúc yếu, nhưng để phát triển bền vững thì phải gắn với đào tạo”. Từ triết lý đó, lại nắm bắt được hướng phát triển của kỹ thuật, công nghệ hiện đại không thể thiếu lĩnh vực vật liệu và kết cấu tiến tiến, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã kiên trì thuyết phục và được nhà trưởng ủng hộ mở đào tạo chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Khoa Cơ học Kỹ thuật (Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN) vào năm 2015. Đến nay, Khoa đã bước sang năm thứ 8 đào tạo sinh viên theo chuyên ngành này. Ngoài ra, NNC cũng là chỗ dựa quan trọng để gây dựng ngành Kỹ thuật hạ tầng ở Trường ĐH Việt Nhật (2016) và Ngành Kỹ sư Xây dựng-Giao thông ở Trường ĐH Công nghệ. Từ thành công của NNC và PTN, năm 2018, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tiếp tục thành lập Bộ môn mới – Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông (Bộ môn trực thuộc trường, tương đương cấp Khoa về mặt hành chính, đến nay đã có khóa kỹ sư đầu tiên ra trường. Sinh viên các ngành này mấy năm gần đây luôn có điểm trúng tuyển đầu vào cao nhất cả nước trong lĩnh vực Kỹ thuật Xây dựng. Những kết quả này mở ra sự hợp tác mới với các Khoa, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước trong lĩnh vực Kỹ thuật Xây dựng.

“Đến nay, NNC, Phòng thí nghiệm và Bộ môn đã và đang có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các nhà PTN và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,… như Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Melbourne(Úc), Đại học Birmingham (UK), ĐH Sejong (Hàn Quốc),… và còn thu hút được các TS trẻ, các NCS từ nước ngoài như Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,… về Việt Nam trao đổi học thuật, thực tập trong NNC”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết. Như vậy, từ mô hình NNC với hoạt động chính là đào tạo nhân tài và nghiên cứu khoa học để có những công bố quốc tế, đã hình thành nên mô hình mới đó là PTN – nơi chuyển từ những nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu ứng dụng.

Năm 2017, ĐHQGHN đã có quyết định công nhận là NNC mạnh. Như vậy, từ một nhóm nghiên cứu rất sơ khai ban đầu, chỉ trong thời gian từ 2010 đến nay, bằng sự kiên trì bền bỉ, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự phấn đấu nỗ lực, quên mình, Thầy và trò trong NNC đã vững vàng tự tin vươn lên tầm quốc tế từ nội lực. Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, NNC đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có 175 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín; được cấp 1 bằng sáng chế trong sản xuất chế tạo vật liệu nanocomposite; xuất bản 2 sách chuyên khảo bằng tiếng Anh; đã có 9 NCS bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ và đang đào tạo 6 NCS. Đến nay ngành Cơ học Việt Nam đã trao 5 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo cho các nhà khoa học trẻ tài năng thì 2 học trò trong NNC là PGS. TS Hoàng Văn Tùng và TS Trần Quốc Quân đã vinh dự được nhận giải thưởng này. 1 thành viên trẻ trong nhóm được Forbes Việt Nam vinh danh đầu năm 2020. Những năm gần đây, NNC vẫn công bố đều mỗi năm 10 – 15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín, kết quả nghiên cứu được mời báo cáo tại các hội nghị quốc tế lớn. Có thể thấy với kết quả và uy tín như vậy không thua kém các nhóm nghiên cứu mạnh của quốc tế. Thương hiệu và uy tín của nhóm nghiên cứu đã vang xa và có sức thu hút trong cộng đồng khoa học quốc tế. Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức cũng giữ vai trò nòng cột tổ chức nhiều hội nghị quốc tế có uy tín thành công như ICEMA 2010, ICEMA2012, ICEMA2014, ICEMA2016, ICEMA2019, ICEMA2021 và Hội nghị quốc tế về tối ưu hóa theo thuật toán của bầy ong (3/2018), Hội nghị quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS TM 2018 (9/2018) với hàng trăm nhà khoa học hàng đầu của quốc tế tham gia, … GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng NNC cũng là nhà khoa học Việt Nam được mời làm thành viên Hội đồng biên tập của 10 tạp chí ISI (SCI, SCIE) có uy tín của quốc tế, và đại diện cho Việt Nam tham gia Ủy ban quốc tế về vật liệu chức năng FGM (2017), Hiệp hội quốc tế về composite (2021),…

Cũng từ hạt nhân NNC, với sự đòi hỏi phát triển từ nội tại, các ngành mới, Khoa mới đã được thành lập để đáp ứng nhu cầu đào tạo bổ sung nhân lực (các kỹ sư, TS) cho xã hội và cho chính NNC. Một số thành viên của NNC không chỉ sinh hoạt khoa học trong NNC mà còn chính là những thầy, cô giáo tham gia giảng dạy ở những ngành, Khoa mới vừa thành lập. Đây là mô hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao rất phù hợp, góp phần khẳng định vai trò quan trọng của NNC và cho thấy NNC chính là tế bào của hoạt động đào tạo và nghiên cứu trong trường đại học.

Nhà khoa học số 1 Việt Nam: Người thầy phải có tâm và có tầm

Trong gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố tới hơn 300 bài báo khoa học, đào tạo nhiều học trò xuất sắc.

Liên tiếp trong ba năm, từ 2019 đến 2021, giáo sư Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong tốp 100.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng thế giới và đứng đầu trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam trong danh sách này các năm 2020, 2021. Trong lĩnh vực kỹ thuật, ông được xếp vị trí thứ 96 thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.

Không có học trò kém

Chia sẻ về sự nghiệp “trồng người” trong không khí cả nước đón chào Ngày hiến chương các nhà giáo Việt Nam 20/11, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết với ông, không có học trò kém. Học trò nào cũng ẩn chứa những tiềm năng và chính niềm tin yêu, sự tận tâm và động viên khích lệ của người thầy là động lực khơi dậy, đánh thức tiềm năng sáng tạo của các học trò. Điều đó đòi hỏi người thầy phải thật sự tâm huyết với nghề, hết lòng với học trò.

Gần 40 năm gắn bó với giáo dục đại học cũng là chừng ấy năm giáo sư Nguyễn Đình Đức thực hiện sứ mệnh “trồng người” cao cả của nhà giáo. Với giáo dục đại học, điều đó lại càng đặc biệt hơn khi người thầy sẽ trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Nếu giáo viên phổ thông là những người đặt nền móng tri thức và đạo đức làm người thì giảng viên đại học lại là người đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, những người chuẩn bị bước vào thị trường lao động, trực tiếp xây dựng và kiến thiết đất nước. Vì vậy, người thầy chính là một tấm gương cho sinh viên không chỉ trong với tư cách là nhà giáo mà còn với tư cách một người đồng nghiệp lớn.

Là một người say mê nghiên cứu khoa học và hướng dẫn rất nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh nghiên cứu khoa học, sự tận tụy và tâm huyết, những bài giảng và lòng yêu nghề và khát khao cống hiến của giáo sư Nguyễn Đình Đức đã thắp sáng ngọn lửa đam mê khoa học của lớp lớp học trò. Ông luôn quan niệm người thầy chân chính phải thực sự tâm huyết, không màng danh lợi, khát khao cống hiến.

Từng tốt nghiệp tiến sỹ ở Nga từ khi còn rất trẻ, với ngành nghiên cứu về vật liệu mới composite, có nhiều cơ hội để làm việc ở nước ngoài nhưng ông vẫn quyết định trở về nước. “Nhìn từ tấm gương của các giáo sư lỗi lạc, tôi nhận thấy để thành công được, họ không chỉ có tài năng mà còn có lý tưởng cống hiến cho đất nước. Những điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến cá nhân tôi. Vì vậy, tôi mong muốn những kiến thức mà mình tích lũy sẽ đóng góp được cho đất nước, để xây dựng được đội ngũ, xây dựng được ngành của mình,” giáo sư Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

Nha khoa hoc so 1 Viet Nam: Nguoi thay phai co tam va co tam hinh anh 2
Giáo sư Nguyễn Đình Đức (thứ hai từ phải sang) và các giáo sư của Đại học Quốc gia Hà Nội. (Nguồn: Vietnam+)

Vượt qua rất nhiều khó khăn thiếu thốn, từ những ngày đầu còn chưa có phòng làm việc cho nhóm nghiên cứu, nhưng cả thầy và trò vẫn cùng nhau cố gắng nỗ lực. Dưới sự hướng dẫn của thầy, nhiều sinh viên đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, nhiều nghiên cứu sinh có kết quả nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín và không hề thua kém các nghiên cứu sinh được đào tạo bài bản hoàn toàn ở nước ngoài.

Nhiều học trò của ông đã tiếp nối con đường trở thành các nhà giáo, nhà khoa học và có chuyên môn giỏi như phó giáo sư Hoàng Văn Tùng (Đại học Kiến trúc Hà Nội), tiến sỹ Trần Quốc Quân (Đại học Phenikaa), tiến sỹ Phạm Hồng Công (Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam), tiến sỹ Vũ Thị Thùy Anh (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội)…

Hội nhập và sáng tạo

Không chỉ là người thầy tận tâm, giáo sư Nguyễn Đình Đức còn là nhà khoa học với tư tưởng hội nhập quốc tế sâu rộng. Với quan điểm để trở thành nhà giáo, nhà khoa học giỏi, người thầy bên cạnh chữ “tâm” phải có lý tưởng và có tầm nhìn, ông luôn tâm niệm các nhà khoa học Việt Nam phải vươn lên, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế. Giáo dục đại học muốn thành công phải luôn bắt nhịp, hội nhập theo các chuẩn mực và trình độ của quốc tế, cả trong đào tạo và nghiên cứu đồng thời gắn với thực tiễn, phục vụ thiết thực sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Điều đó thể hiện rõ trong hướng trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu của ông, đó là các lĩnh vực liên quan đến vật liệu và kết cấu tiên tiến như vật liệu cacrbon-cacrbon siêu bền nhiệt; vật liệu nano; vật liệu mới làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời; các vật liệu composite có tính năng cơ lý cao sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt; các vật liệu tiên tiến đáp ứng yêu cầu lưu trữ thông tin lớn của CMCN 4.0; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và machine learning trong tối ưu hóa vật liệu và kết cấu…

Kết quả của những năm tháng miệt mài nghiên cứu là ông đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín; là tác giả của hai bằng phát minh sáng chế, góp phần quan trọng hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo sư Đức cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.

Với vai trò là người phụ trách quản lý đào tạo của một trong hai đại học lớn nhất cả nước, Đại học Quốc gia Hà Nội, giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược trong phát triển đại học gắn với nhu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế với nhiều đề xuất táo bạo. Nhận thấy để các phát triển nghiên cứu khoa học một cách bền vững cần phải hình thành các tổ chức, năm 2015, ông đề xuất thành lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trực thuộc Khoa Cơ kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.).

Năm 2016, ông đề xuất mở ngành thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng ở Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội) hợp tác với đối tác chính là Đại học Tổng hợp Tokyo và hơn 10 trường đại học khác của Nhật Bản cùng tham gia đào tạo nguồn nhân lực cao cho đất nước trong lĩnh vực Civil Engineering.

Năm 2018, giáo sư Đức kiến nghị thành lập ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng-Giao thông ở Đại học Công nghệ. Năm 2021, ông cùng với Khoa Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) triển khai hợp tác với Học Viện Hàng không Matxcova, mở ngành đào tạo kỹ sư Tự động hóa và Tin học…

Những ngành học mới đã đáp ứng được nhu cầu của người học cũng như yêu cầu nhân lực của xã hội đồng thời mở rộng lĩnh vực đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, được vinh danh là nhà khoa học hàng đầu của cả nước, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho hay với ông đó là niềm vinh dự, nguồn khích lệ động viên nhưng cũng là trách nhiệm phải xứng đáng với những tôn vinh./.

Hà An (Vietnam+)

Nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài

(Dân trí) – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, các nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài, trong đó đánh dấu nhiều gương mặt trẻ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo – ĐHQGHN đã công bố trên 300 công trình khoa học, trong đó có 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Hiện nay, GS Đức là Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, tham gia hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế ISI.

Tháng 10/2021, tạp chí PLoS Biology đã công bố danh sách 100.000 nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới theo cơ sở dữ liệu Scopus. Tác giả của bảng xếp hạng này là các giáo sư Jeroen Baas, Kevin Boyack và John P.A. Ioannidis thuộc Đại học Stanford (Mỹ).

Trong bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2021.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5949 thế giới, và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering.

Nhân dịp đầu xuân năm mới, phóng viên Dân trí đã có cuộc trò chuyện với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức về câu chuyện khoa học, về cơ chế để nền khoa học Việt Nam phát triển xứng tầm.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vào top 100.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới (Ảnh: NH).

Đã từng đoạt giải thưởng “Nhân tài đất Việt” về sản phẩm có định hướng ứng dụng

Chúc mừng ông khi vào top 100.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering. Ban tổ chức họ ghi nhận các công trình nghiên cứu của ông ở hướng nào?

– Sau khi nhận được thông tin tôi hoàn toàn bất ngờ vì thực sự làm khoa học không ai nghĩ đến việc để xếp hạng. Những kết quả đánh giá này của thế giới là sự ghi nhận khách quan những đóng góp và kết quả làm việc miệt mài và bền bỉ của tôi trong suốt gần 40 năm qua và nhóm nghiên cứu. Đây là nguồn cổ vũ, động viên và khích lệ rất lớn cho tôi, cho nhóm nghiên cứu và các thế hệ học trò vững tin vào con đường khoa học và những hướng nghiên cứu mà mình đã chọn, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế, và cũng là niềm vui và tự hào của ĐHQGHN nói riêng và lĩnh vực Engineering của Việt Nam nói chung.

Các công trình khoa học của tôi định hướng nghiên cứu về các vật liệu và kết cấu tiên tiến, thông minh, các vật liệu chức năng và vật liệu nano có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic,… Đây là những hướng nghiên cứu hiện đại, có định hướng ứng dụng cao và được cộng đồng khoa học trên thế giới rất quan tâm.

Bảng xếp hạng này không dựa thuần túy vào số lượng được trích dẫn. Vì nếu dựa vào chỉ số này thì của tôi thấp hơn so với nhiều đồng nghiệp khác.

Các tiêu chí dùng để xếp hạng các nhà khoa học gồm tổ hợp (composite score) của các tham số như: chỉ số ảnh hưởng của nhà khoa học trong lĩnh vực và cộng đồng khoa học, tổng số trích dẫn, chỉ số H (H-index), chỉ số đồng tác giả (HM-index), số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất, số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính và tác giả cuối cùng,…

Hiện nay, tôi cũng tham gia hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế ISI có uy tín và được mời báo cáo tại phiên toàn thể của nhiều hội thảo quốc gia, quốc tế.

Các công trình nghiên cứu của ông đã giải quyết như thế nào trong thực tế?

– Các nghiên cứu về vật liệu composite siêu bền nhiệt carbon-cacrbon của tôi có định hướng ứng dụng trong việc tính toán thiết kế và đảm bảo an toàn cho thân vỏ động cơ tên lửa. Vật liệu nano composite nhiều pha với các hạt nano được ứng dụng để chống thấm trong đóng tàu bằng composite, chế tạo các vật liệu chống chịu các điều kiện khắc nghiệt cũng như vật liệu làm tăng khả năng chuyển đổi năng lượng từ nhiệt sang điện trong các tấm pin mặt trời.

Vật liệu auxetic để giảm chấn, bảo vệ các kết cấu công trình chịu các tải trọng nổ, mô phỏng các vật liệu mới pentagraphin có khả năng lưu trữ thông tin lớn như não bộ của con người,..

Tôi đã có một bằng phát minh, một bằng sáng chế. Các nghiên cứu của tôi và tập thể các nhà khoa học về hệ thống dẫn đường quán tính phục vụ dẫn đường các phương tiện chuyển động có điều khiển đã được giải thưởng “Nhân tài đất Việt” do Báo điện tử Dân trí tổ chức về sản phẩm có định hướng ứng dụng.

GS Nguyễn Đình Đức đam mê truyền đạt kiến thức tới các sinh viên (Ảnh: NH).

Công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN

Thưa giáo sư, đến thời điểm này, đội ngũ khoa học nhà Việt Nam được thế giới ghi nhận so với thế giới như thế nào? về số lượng và chất lượng?

– Theo bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trong năm 2021.

So với mọi năm thì năm nay số lượng nhà khoa học người Việt Nam (bao gồm cả trong nước, việt kiều) có tên trong bảng xếp hạng này tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt nam.

Nếu cách đây 15-20 năm, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng gần như cuối cùng trong khu vực Đông Nam Á thì theo thống kê của Bộ Khoa học Công nghệ, tính đến năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Singapore và Malaysia), đứng thứ 49 trên thế giới.

Trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam lọt top thế giới đã đánh dấu nhiều gương mặt các nhà khoa học trẻ. Đây có phải là bước tiến mới cho nhà khoa học trẻ Việt Nam?

– Số lượng nhà khoa học “made in Vietnam” trong top 10.000 mới có 3 và mới chỉ có 28 người trong top 100.000 – một con số còn rất khiêm tốn nhưng so với năm trước thì đã là một bước tiến vượt bậc.

Nếu nhìn danh sách ngoài top 100.000, có thể thấy năm nay đã có thêm nhiều gương mặt của các nhà khoa học trẻ Việt Nam đang làm việc tại các trường đại học trong nước đã lọt top 2% (xếp hạng từ 100.001-200.000).

Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt nam. Khi chúng ta quan tâm và triển khai nhiều chính sách cho KHCN, trong đó có đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh, tiếp cận các hướng nghiên cứu hiện đại, hỗ trợ công bố quốc tế và các nhà khoa học trẻ, đặc biệt đưa ra các yêu cầu về công bố quốc tế với các luận án tiến sĩ cũng như nâng cao tiêu chuẩn với các chức danh GS, PGS đã có hiệu quả rất tích cực.

Cần có một cơ chế “khoán 10” trong giáo dục đại học

Như đã trao đổi với ông nhiều lần trong các cuộc phỏng vấn trước, ông cho rằng, chế độ đãi ngộ nhà khoa học Việt Nam hiện nay chưa xứng tầm, vì sao vậy? đâu là nút thắt? và giải quyết vấn đề này như thế nào?

– Nếu so mức đầu tư cho một nhóm nghiên cứu có năng suất công bố quốc tế và hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tương đương nhau, thì các nhóm nghiên cứu của Việt Nam có mức đầu tư quá thấp so với thế giới.

Các nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài, nhưng lương thì thấp hơn rất nhiều. Tỷ lệ đầu tư cho KHCN của Việt Nam mới đạt khoảng 0,6% GDP, cũng rất thấp so với thế giới. Đầu tư cho KHCN chưa xứng tầm với vai trò là động lực cho sự phát triển của đất nước.

Để có nguồn lực đầu tư cho KHCN và thu hút nhân tài, trọng dụng và đãi ngộ các nhà khoa học xuất sắc thì trường đại học phải có nguồn lực.

Muốn vậy, phải có một cơ chế “khoán 10” trong giáo dục đại học. Các trường đại học phải đẩy nhanh quá trình tự chủ, tích cực hơn nữa hợp tác với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần đi đôi với kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo để có cơ sở thu học phí theo định mức kinh tế kỹ thuật tương xứng cho từng ngành.

Như vậy, các trường đại học cần phải làm gì để thúc đẩy sáng tạo và thúc đẩy giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học?

– Trước hết, để thúc đẩy giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học thì người thầy phải là tấm gương say mê khoa học. Người thầy phải dìu dắt, truyền cảm hứng và thắp lên ngọn lửa đam mê khoa học, đam mê sáng tạo cho các em sinh viên.

Các trường đại học cần quan tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong nhà trường, đào tạo phải gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu và đặc biệt cần quan tâm xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học để tập hợp và thu hút các bạn trẻ tham gia.

Làm thế nào để các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học Việt Nam không để “ngăn kéo”, thưa ông? Chìa khóa nào để đưa các công trình nghiên cứu khoa học vào thực tế?

– Để kết quả nghiên cứu không vào “ngăn kéo” thì phải có sự đồng hành của doanh nghiệp theo mô hình 4 nhà: Nhà nước – Nhà trường – Nhà khoa học và Doanh nghiệp.

Đồng thời, phải đổi mới cách thức giao và đặt hàng các đề tài khoa học. Các nhiệm vụ KHCN phải đặt mục tiêu hướng tới thực tiễn, phục vụ thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hỗ trợ các nhà khoa học đăng ký phát minh sáng chế và bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Mô hình của một trường đại học tiên tiến trong thời đại CMCN 4.0 sẽ có 3 cấu phần chính là: Nghiên cứu, Chuyển đổi số và Đổi mới sáng tạo (Innovation). Việc đồng hành cùng doanh nghiệp và thúc đẩy, hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sẽ là động lực và chìa khóa để đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tế.

Xin trân trọng cám ơn GS!

GS Nguyễn Đình Đức: Nhà khoa học cống hiến không phải vì mục đích để xếp hạng

GDVN- Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering.

LTS: Tháng 10/2021, tạp chí PLoS Biology đã công bố danh sách 100.000 nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới theo cơ sở dữ liệu Scopus. Tác giả của bảng xếp hạng này là các Giáo sư Jeroen Baas, Kevin Boyack và John P.A. Ioannidis thuộc Đại học Stanford (Mỹ).

Các tiêu chí dùng để xếp hạng các nhà khoa học gồm có: chỉ số ảnh hưởng của nhà khoa học trong lĩnh vực và cộng đồng khoa học, tổng số trích dẫn, chỉ số H (H-index), chỉ số đồng tác giả (HM-index), số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất; số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính và tác giả cuối cùng.

Theo bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2021. Đặc biệt, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering.

Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức xung quanh sự kiện trên.

Phóng viên: Xin chúc mừng Giáo sư được vinh danh trong top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering. Giáo sư có thể chia sẻ về quy trình đánh giá xếp hạng bình chọn danh sách các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng thế giới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Đây là nghiên cứu độc lập của nhóm tác giả về trắc lượng khoa học có uy tín của Đại học Stanford của Hoa Kỳ. Các tiêu chí đánh giá ở bảng xếp hạng này được xem xét khá toàn diện dựa trên sự xem xét và tổ hợp (composite score) của nhiều thông số, không chỉ dựa vào tổng số trích dẫn khoa học mà một nhà nghiên cứu có được, từ đó đưa ra danh sách xếp hạng ảnh hưởng của nhà khoa học trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering (ảnh: NTCC)

Tôi cho rằng, với một nhà nghiên cứu, nếu các kết quả nghiên cứu của họ không được tham khảo, trích dẫn thì không thể định lượng được mức độ ảnh hưởng trong cộng đồng khoa học.So với mọi năm thì năm nay số lượng nhà khoa học uy tín của Việt Nam (bao gồm cả trong nước, Việt kiều) có tên trong bảng xếp hạng này tăng lên đáng kể. Đây là sự ghi nhận bước trưởng thành và từng bước lớn mạnh của khoa học công nghệ Việt Nam.

Với cá nhân tôi, sự ghi nhận này là thành quả của sau gần 40 năm làm việc, tích lũy. Các nhà khoa học cống hiến không phải vì mục đích để xếp vào hạng, nhưng dẫu sao, bảng xếp hạng này cũng là một sự ghi nhận và đánh giá khách quan, công bằng của cộng đồng quốc tế nên là sự động viên rất có ý nghĩa. Quan trọng hơn bảng xếp hạng này sẽ là sự cổ vũ, động viên rất lớn đối với các thế hệ học trò, với các trường phái khoa học mà bản thân các nhà khoa học đã tạo lập để các bạn trẻ đi theo, tự tin tiếp tục dấn thân vào con đường khoa học, hội nhập với quốc tế và tiếp cận đỉnh cao của khoa học.

Có thể thấy rất nhiều nhà khoa học ưu tú và lỗi lạc của thế giới có tên trong bảng xếp hạng này. Việc nhiều nhà khoa học “đình đám”, có uy tín trong nước và thế giới không có mặt trong top 100.000 theo năm (single year, kết quả trích dẫn khoa học của một năm gần nhất), không phải do họ không đủ uy tín, không xuất sắc mà có thể do năng suất công bố trong một vài năm gần đây thấp hơn so với các nhà khoa học khác hoặc số trích dẫn không được nổi bật. Và đây là chuyện hết sức bình thường.

Mỗi bảng xếp hạng có những tiêu chí riêng, cũng giống như các bảng xếp hạng đại học THE, QS hay ARWU,… đưa ra những tiêu chí đánh giá không giống nhau tuyệt đối, song mỗi bảng đều có ý nghĩa và giá trị, giúp cho các trường đại học biết mình đang đứng ở đâu trên trường quốc tế. Tất nhiên, bảng xếp hạng nào cũng sẽ có những tiêu chí đánh giá riêng và có thể còn những khiếm khuyết.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là bảng xếp hạng này ngoài các nhà khoa học công tác cơ sở giáo dục đại học công lập như Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thì còn có rất nhiều các nhà khoa học đến từ các cơ sở giáo dục đại học công lập tự chủ, dân lập như Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Phenikaa…

Điều này cho thấy các trường dân lập, trường tự chủ ý thức được việc xếp hạng rất quan trọng, đem lại uy tín, thương hiệu cho nhà trường nên họ đã đầu tư, thu hút nhân tài, trả lương cao, xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, thậm chí mời nhà khoa học nước ngoài đến để xây dựng nhóm nghiên cứu quốc tế. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng cho hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, là một trong những nhân tố thôi thúc các trường đại học công lập mau chóng tự chủ và đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để có nguồn lực tốt nhằm tiếp tục duy trì giữ vững thứ hạng và bứt phá vươn lên.

Giáo sư có bất ngờ khi mình lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Tôi thật sự bất ngờ và cũng rất tự hào, phấn khởi, vinh dự khi là người Việt Nam, lại đang làm việc cơ hữu bền bỉ trong nước, trong điều kiện hoàn cảnh nghiên cứu còn có những khó khăn, hạn chế lại được thế giới đánh giá và xếp hạng cao so với các đồng nghiệp quốc tế. Sự đánh giá này làm cho tôi như thấy được động viên, khích lệ. Đây là thành quả của rất nhiều năm kiên trì, làm việc miệt mài, nỗ lực vượt bậc của tôi và nhóm nghiên cứu và đã được đền đáp bằng sự rút ngắn khoảng cách với các nhà khoa học trên thế giới.

Đây cũng là sự động viên rất lớn đối với các thế hệ học trò, thế hệ tiếp nối để các em vững tin dấn thân vào con đường khoa học bởi hiện nay con đường làm khoa học rất vất vả, trong khi thu nhập lại không cao. Đây cũng là niềm vui và tự hào của Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng và lĩnh vực Engineering của Việt Nam nói chung.

Giáo sư có chia sẻ gì với các nhà khoa học đang đặt mục tiêu lọt vào danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Từ kinh nghiệm của bản thân, tôi thấy cần cù, kiên trì và nỗ lực không ngừng với năng suất nghiên cứu ổn định và hội nhập được với trình độ và chuẩn mực quốc tế thì một ngày nào đó nhất định sẽ được ghi nhận.

Tôi cũng nhận thức được rằng, ngày hôm nay tôi có tên trong bảng xếp hạng nhưng một vài năm nữa khi ngày càng lớn tuổi, hoặc nhóm nghiên cứu có thể không duy trì được mạnh nữa thì bị loại ra khỏi danh sách này là chuyện bình thường. Đó là quy luật của sự vận động và phát triển biện chứng. Có như vậy thì thế hệ trẻ mới có cơ hội vươn lên, chạm vào vị trí tốt trong bảng xếp hạng.

Điều tôi muốn nhắn nhủ với các nhà khoa học trẻ là hạnh phúc và thành công nhất định sẽ đến với những ai kiên trì và hăng say lao động.

Ảnh minh họa: T.L

Giáo sư nhìn nhận thế nào về phong độ của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học ở tầm cao? Ông kỳ vọng gì ở thế hệ những nhà khoa học trẻ nước ta hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Năm nay xét về số lượng nhà khoa học có địa chỉ tại Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng thì có một số đáng kể là các nhà khoa học nước ngoài có hợp tác và ghi địa chỉ công tác tại Việt Nam, nhà khoa học Việt kiều.

Còn số lượng nhà khoa học “made in Vietnam” thì mới chỉ 28/100.000 – một con số còn rất khiêm tốn, nhưng so với năm trước thì đã là một bước tiến vượt bậc. Nếu nhìn danh sách ngoài top 100.000, có thể thấy có thêm nhiều những gương mặt của các nhà khoa học trẻ Việt Nam đang làm việc tại các trường đại học trong nước đã lọt xếp hạng từ 100.001-200.000.

Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam. Khi chúng ta quan tâm và triển khai nhiều chính sách cho khoa học – công nghệ, trong đó có đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh, khuyến khích công bố quốc tế tiếp cận chuẩn khu vực và quốc tế, hỗ trợ các nhà khoa học trẻ, đặc biệt đưa ra các chuẩn mực đánh giá luận văn tiến sĩ cũng như nâng cao tiêu chuẩn với các chức danh giáo sư, phó giáo sư đã có hiệu quả tích cực nhất định.

Nếu cách đây 15-20 năm, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng gần như cuối cùng trong khu vực Đông Nam Á thì theo thống kê của Bộ Khoa học Công nghệ, tính đến năm 2020 lượng công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Singapore và Malaysia), đứng thứ 49 trên thế giới.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức!

Thùy Linh