Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trường Đại học Công nghệ sẵn sàng cho đào tạo nhân lực lĩnh vực bán dẫn và vi mạch

Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET) là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực Công nghệ và Kỹ thuật. Trải qua hơn 20 năm phát triển, Trường ĐHCN đã xây dựng và phát triển được nhiều chương trình đào tạo tiên tiến, đặc biệt là các chương trình cung cấp kiến thức nền tảng quan trọng cho đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực bán dẫn và vi mạch. Hiện tại Nhà trường là một trong số ít các trường đại học có đủ chương trình đào tạo định hướng bán dẫn và vi mạch từ bậc đại học, thạc sĩ cho đến tiến sĩ.

Ngay từ khi thành lập, với sứ mệnh hàng đầu là “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các lĩnh vực khoa học – công nghệ tiên tiến”, Trường ĐHCN đã sớm triển khai các chương trình đào tạo và nghiên cứu tập trung vào các lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với lĩnh vực bán dẫn và vi mạch. Các chương trình đào tạo này có thể kể đến như: Công nghệ Kỹ thuật Điện tử – Viễn thông, Kỹ thuật máy tính (thuộc khoa Điện tử – Viễn thông), Vật lý kỹ thuật, Kỹ thuật năng lượng (thuộc khoa Vật lý kỹ thuật & Công nghệ Nano), Cơ kỹ thuật, Công nghệ Kỹ thuật Cơ điện tử (thuộc khoa Cơ học kỹ thuật & Tự động hóa) v.v. Tham gia giảng dạy các học phần là các giảng viên, chuyên gia và các nhà khoa học uy tín có kinh nghiệm chuyên môn sâu trong lĩnh vực bán dẫn của Nhà trường.

Các chương trình đào tạo này đã được Nhà trường đưa vào giảng dạy trong nhiều năm qua, góp phần đào tạo hàng nghìn nhân lực chất lượng cao có trình độ từ cử nhân, kỹ sư cho tới thạc sĩ, tiến sĩ với trình độ và kỹ năng chuyên môn tốt, tham gia tích cực và hiệu quả vào các công đoạn khác nhau của nền công nghiệp bán dẫn và vi mạch. Trường ĐHCN cũng thường xuyên gửi sinh viên tham gia các chương trình giao lưu trao đổi đào tạo, nghiên cứu, gần nhất là chương trình trao đổi giảng viên và sinh viên do Hiệp hội bán dẫn Đông Nam Á (SEMI SEA) tổ chức tại Malaysia, nhằm khẳng định vị thế cũng như tinh thần hội nhập quốc tế của Nhà trường. 

Các sản phẩm thiết kế và chế tạo dựa trên công nghệ bán dẫn phát được phát triển bởi Thầy Cô và sinh viên của các nhóm nghiên cứu tại Trường ĐHCN

Bên cạnh các chương trình đào tạo, Trường ĐHCN trong nhiều năm qua đã ưu tiên đầu tư phát triển mạnh các nhóm nghiên cứu chuyên sâu và các phòng thí nghiệm hiện đại gắn với lĩnh vực nghiên cứu về bán dẫn và vi mạch. Hiện tại, trường có 04 nhóm nghiên cứu mạnh và 04 phòng thí nghiệm đang triển khai nghiên cứu về Thiết kế, chế tạo linh kiện bán dẫn, Hệ thống cơ điện tử tiên tiến, Vật liệu và linh kiện Micro-nano v.v

Các lĩnh vực nghiên cứu về chip/bán của nhà trường có thế mạnh có thể kể đến như: Thiết kế vi mạch tích hợp VLSI, thiết kế chip & hệ thống nhúng, thiết kế chế tạo linh kiện vi cơ điện tử và vi hệ thống, vật liệu và linh kiện nano, công nghệ quang tử, tự động hóa v.v. Các lĩnh vực nghiên cứu này bước đầu đã đạt được các kết quả quan trọng với nhiều sản phẩm được thiết kế và chế tạo dựa trên công nghệ bán dẫn và hàng trăm công trình công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín hàng năm.

Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHCN và Tập đoàn Samsung Electronics trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ Thạc sĩ định hướng bán dẫn và vi mạch

Hợp tác giữa Nhà trường và Doanh nghiệp là một trong những chiến lược quan trọng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp cận chuẩn quốc tế, nhất là đối với ngành công nghiệp công nghệ cao như bán dẫn và vi mạch. Xác định được tầm quan trọng đó, trường ĐHCN thời gian vừa qua, đã hợp tác với các tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn và vi mạch như Samsung, Cadence, Qorvo, Synopsys, …Đặc biệt trong đó là thỏa thuận hợp tác ký kết giữa Trường ĐHCN và Tập đoàn Samsung Electronics (Hàn Quốc) nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo nhân tài trình độ Thạc sĩ định hướng bán dẫn và vi mạch. Sự kiện này có ý nghĩa lớn trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp bán dẫn. Hợp tác với tập đoàn công nghệ hàng đầu, với các “ông lớn” như Samsung mang lại cơ hội và giá trị to lớn trong việc triển khai đào tạo, nghiên cứu tiếp cận chuẩn quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng nhân lực toàn cầu, đáp ứng yêu cầu của đất nước và thế giới về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực bán dẫn và vi mạch.

        Sinh viên trường ĐHCN đoạt huy chương bạc tại cuộc thi lập trình viên quốc tế ICPC 2024

Như vậy, có thể thấy trường ĐHCN là một trong những trường đại học hàng đầu Việt Nam, với tầm nhìn xa trông rộng, từ nhiều năm nay đã và đang triển khai toàn diện: từ chương trình đào tạo, xây dựng các phòng thí nghiệm tiên tiến hiện đại, các nhóm nghiên cứu mạnh, và hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hàng đầu thế giới để triển khai đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao trong lĩnh vực vi mạch và bán dẫn. Bên cạnh đó, phải kể đến thế mạnh lớn nhất của nhà trường là đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản từ nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới, và đặc biệt là chất lượng sinh viên đầu vào – trường ĐHCN là một trong những trường đại học có điểm tuyển sinh đầu vào cao nhất cả nước trong hầu hết tất cả các ngành, lĩnh vực đang đào tạo.      

Đó chính là những yếu tố then chốt bảo đảm chất lượng và tạo nên những cú huých tăng trưởng vượt bậc của nhà trường. Năm 2022, lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ của ĐHQGHN “đi sau nhưng về trước” đã vươn lên và xếp hạng top 386 trong bảng xếp hạng QS của thế giới. Sau hơn 10 năm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, trong năm 2023, quy mô tuyển sinh các ngành thuộc lĩnh vực Kỹ thuật công nghệ đã chiếm 27% trong tổng quy mô tuyển sinh của ĐHQGHN. Lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ, cùng với Y – Dược sẽ là những trụ cột, những đôi cánh để ĐHQGHN phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Lãnh đạo ĐHQGHN, ĐH Bách Khoa, ĐH Đà Nẵng và lãnh đạo trường ĐHCN tại Hội thảo Phát triển nguồn nhân lực CLC ngành công nghiệp chip bán dẫn tại Đà Nẵng, tháng 10/2023

Đứng trước bối cảnh tự chủ đại học và cơ hội hội nhập chưa từng có: từ năm 2023 đến nay, Việt Nam đã mới trở thành đối tác chiến lược toàn diện với những quốc gia phát triển, với các cường quốc như Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023) và Australia (2024), cũng như chiến lược phát triển mới của ĐHQGHN và của Quốc gia trong giai đoạn tới, nhà trường đã xác định chiến lược đến năm 2035 sẽ trở thành một trong những trường đại học Công nghệ Kỹ thuật hàng đầu Châu Á và khu vực, với tầm nhìn đến năm 2045 có một số lĩnh vực lọt vào top xếp hạng ranking 200 của thế giới.           

               Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn và lãnh đạo nhà trường tại Hội nghị tại Đà Nẵng, tháng 10/2023

Với Truyền thống, sứ mạng và tầm nhìn tương lai, sự quyết tâm và đồng lòng mạnh mẽ của tập thể cán bộ giảng viên và sinh viên của nhà trường, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các bộ ngành và ĐHQGHN tới lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ, trong đó có lĩnh vực bán dẫn và vi mạch, sẽ là tiền đề để trường ĐHCN tiếp tục tăng cường mở rộng quy mô đào tạo, định hướng nghiên cứu chuyên sâu, đồng thời kết hợp với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của xã hội; góp phần vào sự thành công của ngành công nghiệp bán dẫn, tạo ra thế hệ tài năng mới của Việt Nam trong tương lai; xứng đáng là cơ sở đào tạo hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật.

                                                  GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN

Giáo sư quê Hải Dương 3 năm liền lọt top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới

Đây là năm thứ 3 liên tiếp, Giáo sư Nguyễn Đình Đức, quê ở phường An Phụ, thị xã Kinh Môn (Hải Dương) lọt vào bảng xếp hạng 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.

Việt Nam có 5 người lọt vào bảng xếp hạng top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới do Tạp chí PLoS Biology của Mỹ vừa công bố, trong đó có Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức (sinh năm 1963, quê ở phường An Phụ, Kinh Môn), Trưởng ban Đào tạo đại học và sau đại học Đại học Quốc gia Hà Nội.

Giáo sư Đức đứng đầu trong số 5 nhà khoa học lọt vào top 10.000 với xếp hạng 5.949 thế giới và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering (kỹ thuật, ngành kỹ sư). Đây là năm thứ ba liên tiếp, giáo sư lọt vào top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.   

Bảng xếp hạng này do nhóm nhà khoa học uy tín hàng đầu của Đại học Stanford (Mỹ) nghiên cứu và công bố trên tạp chí PLoS Biology. Nhóm nhà khoa học dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ năm 1960 đến tháng 8.2021 để lọc từ hơn 7 triệu nhà khoa học chọn vào top 100.000 người có ảnh hưởng nhất và sau đó chọn ra 10.000 nhà khoa học hàng đầu. Các nhà khoa học trên thế giới được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học, 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Theo Báo Hải Dương (2021)

GS Nguyễn Đình Đức sáng lập ngành mới: Kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng-Giao thông ở Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Vừa là Giám đốc Chương trình Kỹ thuật hạ tầng của Trường Đại học Việt Nhật và Trưởng Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của trường Đại học Công nghệ, GS Nguyễn Đình Đức đã xây dựng Đề án và Chương trình đào tạo hệ kỹ sư (ngành thí điểm) Công nghệ kỹ thuật Xây dựng-Giao thông và đề xuất với Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN triển khai thành lập Bộ môn Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông trực thuộc trường (như đơn vị độc lập) , tiến tới thành lập Khoa mới của nhà trường trong tương lai. Ngành này bắt đầu tuyển sinh và triển khai đào tạo từ 2017.   

Sau gần 30 năm kể từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển đòi hỏi phải đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng như xa lộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, và đầu tư vào hỗn hợp năng lượng hiệu quả như các nhà máy thủy điện, chạy than và khí đốt… Trong thập niên vừa qua tổng đầu tư hạ tầng ở Việt Nam đã chiếm bình quân hơn 10% GDP, vượt qua khỏi các nền kinh tế Đông Á vốn nổi tiếng về mức đầu tư cơ sở hạ tầng cao. Kết quả từ tỉ lệ đầu tư cao của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quy mô và khối lượng cơ sở hạ tầng, góp phần vào sự thành công về tăng trưởng và phát triển của đất nước.

Qua đó trong 2 thập kỷ đã qua, Việt Nam có rất nhiều những công trình xây dựng và giao thông hiện đại phục vụ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu sử dụng của người dân. Ở khu vực phía bắc các công trình xây dựng và giao thông tiêu biểu như hệ thống đường Cao tốc Hà Nội – Lào Cai, Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Đại lộ Thăng Long, Đường Vành đai 3 Hà Nội, Cảng hàng không quốc tế Nội Bài… Các hệ thông giao thông mới này thúc đẩy sự phát triển kinh tế của toàn khu vực cũng như nâng cao sự tiện lợi trong lưu thông hàng hóa và nhu cầu đi lại của người dân giữa Thủ Đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tại khu vực phía Nam có rất nhiều hệ thống đường cao tốc tương tự như TPHCM-Long Thành – Dầu Giây, TPHCM – Trung Lương… Một số công trình lớn hiện đang thi công như dự án đường sắt đô thị Hà Nội và TPHCM. Bên cạnh đó hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước cũng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ tại các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và TPHCM, cũng như nhiều đập, hồ trữ nước phục vụ nông nghiệp, phòng chống hạn hán và phát điện trong cả nước.

Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển đó, kỹ thuật xây dựng và giao thông của Việt Nam còn có nhiều hạn chế như kỹ thuật công nghệ chính của các công trình nêu trên còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, phụ trách thi công các hạng mục chính là các đối tác nước ngoài. Tuổi thọ của các công trình kỹ thuật hạ tầng ngắn, nhanh chóng xuống cấp. Đặc biệt, sự phát triển của công trình kỹ thuật hạ tầng của Việt Nam chưa đáp ứng kịp sự phát triển của kinh tế cũng như nhu cầu sử dụng của người dân ở cả khu vực đô thị và nông thôn, với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra tại Việt Nam.

Ngoài ra, các đô thị lớn của Việt Nam đặc biệt là Hà Nội và TPHCM đang phải đối mặt với vấn đề dân số tập trung quá đông. Tỷ lệ dân số tập trung cao dẫn đến đô thị trên thế giới hiện đối mặt với rất nhiều vấn đề như : vấn đề giao thông, vấn đề môi trường, vấn đề rác thải, vấn đề ô nhiễm nguồn nước, vấn đề xuống cấp của cơ sở hạ tầng, dễ bị tổn thương trước thiên tai và thảm họa (cháy nhà, bão, lũ lụt…)… Do đó việc phát triển và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng và giao thông để duy trì và phát triển đô thị bền vững là nhu cầu cấp bách.

2_img_1445-2

Theo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Chính Phủ, nhân lực khối ngành xây dựng sẽ tăng từ 2,9 triệu người năm 2010 lên khoảng 5 triệu vào năm 2015 và khoảng 8-9 triệu người vào năm 2020. Trong đó, tỷ lệ nhân lực qua đào tạo tăng từ mức 41% năm 2010 lên khoảng 60% năm 2015 và khoảng 65% năm 2020. Bậc sơ cấp nghề chiếm tỷ lệ cao với khoảng 68,5% năm 2015 và khoảng 68% năm 2020, bậc trung cấp chiếm khoảng 25% năm 2015 và khoảng 24% năm 2020. Nhu cầu nhân lực được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học sẽ tăng dần lên với bậc cao đẳng chiếm khoảng 2% năm 2015 và khoảng 3% năm 2020, bậc đại học và trên đại học chiếm khoảng 4,5% năm 2015 và khoảng 5% năm 2020.

Tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều trường Đại học đang thực hiện các chương trình đào tạo cử nhân có liên quan kến kỹ thuật xây dựng và giao thông như trường Đại học Xây dựng, trường Đại học Giao thông vận tải Hà Nội, trường Đại học Thủy lợi… Tuy nhiên các trường đại học nêu trên hầu hết chỉ tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực dựa trên các thế mạnh của các trường đó trong từng lĩnh vực chuyên sâu như xây dựng công trình giao thông (ĐH Giao thông), xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp (ĐH Xây dựng)…

GS Nguyễn Đình Đức cho biết: Chương trình kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường Đại học công nghệ có tính đặc thù và dựa trên thế mạnh của nhà trường, và có những điểm mới, đặc sắc là:

  • Cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ ngành kỹ sư giao thông và xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực infrastructure và Civil Engineering là University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc), từ đó kỹ sư ra trường có thể áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã được trang bị để giải quyết các vấn đề liên
  • quan izmit escort tuzla escort Casino siteleri erotik film izle bedava bahis  đến: giao thông, xây dựng, quy hoạch và quản lý các dự án, duy tu bảo trì các công trình.
  • Phát huy thế mạnh liên ngành của trường ĐHCN là công nghệ thông tin, điện tử và vi cơ điện tử, vật lý kỹ thuật, cơ học kỹ thuật, Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trong chương trình đào tạo.
  • Có sự tham gia xây dựng chương trình, tham gia giảng dạy của các chuyên gia từ tất cả các đại học lớn, đầu ngành trong lĩnh vực này trên địa bàn Thủ đô ĐH Giao thông, ĐH Xây dựng, ĐH Thủy lợi, ĐH Việt Nhật và các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài trong lĩnh vực này
  • Tận dụng được quan hệ với chương trình thạc sỹ kỹ thuật của trường Đại học Việt Nhật và các doanh nghiệp của Nhật bản tại Việt nam trong lĩnh vực này.
  • Đặc sắc của chương trình là có những học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức hoàn toàn mới về giao thông và xây dựng gắn với phát triển bền vững, quy hoạch vùng và lãnh thổ bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
  • Tiếp cận khái niệm mới về công trình xanh trong tương lai, trong đó có áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu chí về công nghệ mới, vật liệu mới, tiết kiệm năng lượng,…
  • Tận dụng được PTN kỹ thuật hạ tầng của VJU (năm 2016-2017) và PTN Vật liệu và kết cấu tiên tiến chống chọi các điều kiện khắc nghiệt của ĐHCN (2017-2018), có điều kiện cho sinh viên thực hành thực tập.

Tháng 12.2016, Giám đốc ĐHQGHN đã phê duyệt và phân bổ 100 chỉ tiêu cho trường ĐHCN tuyển sinh ngành này vào năm 2017.

Tuyển sinh theo nhóm ngành, cùng với ngành Cơ học Kỹ thuật.

2_img_1445-1

Ảnh trên: GS Nguyễn Đình Đức chủ trì  Seminar về Kỹ thuật Xây dựng tại Trường ĐH Việt Nhật,  Dec 2016

Ảnh dưới: GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN), GS Kato (ĐH Tokyo) và các đồng nghiệp Việt Nam – Nhật Bản trong ngành Xây dựng – Giao thông

Google https://topadmissionessay.com/ handwriting input handwrite text on your phone or tablet in 97 languages.