GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng Nhóm nghiên cứu mạnh để lại dấu ấn trong hành trình 30 năm phát triển của ĐHQGHN

Được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ với sứ mạng là đại học trọng điểm quốc gia – một trung tâm đào tạo chất lượng cao, trình độ cao gắn với nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế, làm nòng cốt và đầu tàu đổi mới cho hệ thống giáo dục nước nhà. Sau 30 năm hình thành và phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu lớn, qua đó không chỉ khẳng định vị thế là nơi truyền bá tri thức, mà còn là nơi sáng tạo tri thức mới, là đại diện tiêu biểu của nền học thuật quốc gia – dân tộc.

Trường ĐH Công nghệ và khát vọng trở thành đại học tiên tiến của châu Á

GDVN- Mục tiêu đến năm 2045, Trường ĐH Công nghệ trở thành một trung tâm xuất sắc, đi đầu trong đào tạo tài năng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Sáng ngày 28/11, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Lễ Công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.

Tại buổi lễ, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường đã trao Nghị quyết ban hành chiến lược cho Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường, để Ban Giám hiệu nhà trường tổ chức triển khai thực hiện.

Lễ Công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.

Chiến lược “tham vọng” thể hiện trách nhiệm của nhà trường

Phát biểu chỉ đạo tại Lễ công bố, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường chia sẻ: “Ngày hôm nay là một ngày có ý nghĩa lịch sử đối với sự phát triển của Trường Đại học Công nghệ và Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm nay, Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố chiến lược phát triển mới, trong đó đề ra mục tiêu là đến năm 2035, Đại học Quốc gia Hà Nội phải vào top 300, đến năm 2045 phải vào top 200 trong các bảng xếp hạng thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức phát biểu chỉ đạo.

Xếp hạng phải phụ thuộc vào các trường thành viên, các trường phải đồng hành, và Trường Đại học Công nghệ tiên phong công bố kế hoạch chiến lược của mình, điều này thể hiện sự đồng hành với Đại học Quốc gia Hà Nội”.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết, việc ban hành Chiến lược mới dựa vào 3 căn cứ, là: chiến lược phát triển của Đại học Quốc gia Hà Nội; Thực hiện tự chủ đại học và việc trường chuẩn bị chuyển lên cơ sở Hòa Lạc – tương lai của Đại học Quốc gia Hà Nội.

“Trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học, trường đại học phải tự đứng trên đôi chân của mình và phải vươn lên bằng chất lượng, hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả gắn với quy mô phải là vấn đề cần cân nhắc để có sự đồng thuận trong phát triển nhà trường.

Với chiến lược đầy tham vọng này sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, nhưng thể hiện sự cam kết, trách nhiệm của Trường Đại học Công nghệ với Đại học Quốc gia Hà Nội và với xã hội”, Giáo sư Đức khẳng định.

Chủ tịch Hội đồng trường nhấn mạnh, sứ mệnh của Trường Đại học Công nghệ luôn gắn với sứ mệnh của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Thầy Đức cho biết thêm: Chiến lược lần này thay đổi về quy mô, trường hướng tới đào tạo cả về cơ khí chế tạo máy. Từ đây, nhà trường sẽ hoàn thiện và làm ra được những sản phẩm hoàn chỉnh, cộng với thế mạnh vốn có của Trường Đại học Công nghệ, trường sẽ vươn lên phát triển.

Nhà trường cũng tiếp tục đẩy mạnh những ngành mũi nhọn, mở rộng quy mô một số ngành nghề vệ tinh như: Fintech, quản lý quá trình sản xuất. Nhà trường quyết tâm phải là một trường hàng đầu về công nghệ, khi đó, đào tạo về quản lý công nghệ mới đạt kết quả tốt.

Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức trao Nghị quyết ban hành chiến lược cho Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình.

Chiến lược phát triển nhà trường trước đây xác định Trường Đại học Công nghệ trở thành một trường đại học hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ thì chiến lược lần này xác định trường sẽ trở thành một đại học tiên tiến của châu Á và của khu vực, quyết tâm đến năm 2035 có một số lĩnh vực vào top 300. Điều này thể hiện hoài bão của trường nhưng là có cơ sở, vì một số lĩnh vực hiện nay trường đã đạt được top 386.

Trường Đại học Công nghệ có thế mạnh là đầu vào chất lượng và đội ngũ cán bộ cũng chất lượng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ đều là những tiến sĩ trẻ năng động, được đào tạo ở những nước tiên tiến, có năng lực công bố, năng lực nghiên cứu đầy hoài bão, nên thời gian tới nhà trường chú trọng chăm lo đến phát triển con người (đầu vào – đầu ra).

Trong đợt kiểm định chất lượng giáo dục vừa rồi, đoàn kiểm định đánh giá chất lượng đầu ra của trường rất tốt, tất cả sinh viên của trường khi ra trường 100% đều có việc làm ngay, trong đó lĩnh vực công nghệ thông tin có 82% sinh viên ra trường có việc làm đúng chuyên môn, còn các lĩnh vực khác cũng có trên 60% sinh viên tốt nghiệp ra trường có việc làm đúng chuyên môn. Có những sinh viên của trường được làm việc ở những công ty toàn cầu, trở thành nhân lực chủ chốt trong lĩnh vực kỹ thuật.

Mục tiêu thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo tiên tiến của châu Á

Cũng tại buổi Lễ công bố Chiến lược này, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường, đã trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp cơ bản nhất để triển khai thực hiện Chiến lược.

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình cho biết, mục tiêu và sứ mệnh phát triển đã được xác định và tuyên bố ngay từ khi thành lập Trường Công nghệ năm 2004 với Hiệu trưởng đầu tiên là Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường, đã trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp cơ bản nhất để triển khai thực hiện Chiến lược mới.

Gần đây nhất, năm 2019, Trường Đại học Công nghệ đã ban hành Quyết định điều chỉnh Chiến lược phát triển nhà trường, tầm nhìn đến 2035. Chỉ trong vòng 5 năm từ 2019 đến nay, Trường Đại học Công nghệ đã bám sát Chiến lược đó, phát triển vượt bậc cả về quy mô và số lượng chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề.

Bên cạnh các ngành truyền thống thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, Điện tử Viễn thông, Cơ kỹ thuật và Tự động hóa, Vật lý kỹ thuật. Từ 2019 cho đến 2023, nhà trường đã mở thêm mới những lĩnh vực quan trọng như Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông, Công nghệ hàng không vũ trụ, Nông nghiệp công nghệ cao và Trí tuệ nhân tạo.

Giáo sư Chử Đức Trình cho biết, chiến lược lần này được sửa đổi và điều chỉnh, nhưng theo nguyên tắc trung thành tuyệt đối với triết lý, mục tiêu của các Chiến lược mà các bậc tiền bối đã xây đắp qua các thời kỳ.

Theo đó, sứ mệnh của Trường Đại học Công nghệ là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu phát triển và ứng dụng các lĩnh vực khoa học – công nghệ tiên tiến; tiên phong tiếp cận chuẩn mực giáo dục đại học khu vực và thế giới, đóng góp tích cực vào sự phát triển nền kinh tế và xã hội tri thức của đất nước. Với khẩu hiệu hành động là: Sáng tạo – Tiên phong – Chất lượng cao.

Triết lý giáo dục của nhà trường là: Sáng tạo và vun đắp giá trị nhân văn của công nghệ.

Giáo sư Chử Đức Trình khẳng định, mục tiêu giáo dục của đại học định hướng nghiên cứu không chỉ để tiếp cận tri thức và công nghệ tiên tiến mà còn nâng cao năng lực sáng tạo tri thức và công nghệ mới, định hướng áp dụng công nghệ vị nhân sinh và phát triển bền vững; góp phần hình thành thế hệ công dân mới có năng lực và trách nhiệm phụng sự xã hội.

Bốn giá trị cốt lõi của Trường Đại học công nghệ là: đổi mới sáng tạo; hợp tác; chất lượng cao và nhân văn.

Giáo sư Chử Đức Trình cho biết, từ năm 2022, Trường Đại học Công nghệ thực hiện tự chủ chi thường xuyên. Hiện trường có 18 chương trình đào tạo đại học, 11 chương trình thạc sĩ, 9 chương trình tiến sĩ với 7576 sinh viên.

Trường Đại học Công nghệ là trường thành viên tích cực đóng góp vào bảng xếp hạng của Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2023, Đại học Quốc gia Hà Nội đứng ở vị trí 661, tăng 97 bậc trong Bảng xếp hạng các trường đại học thế giới.

Tầm nhìn của Trường Đại học Công nghệ đến năm 2045 là: Duy trì vị thế một trường đại học kỹ thuật công nghệ hàng đầu trong nước, nằm trong nhóm các trường đại học tiên tiến ở Châu Á; một trung tâm xuất sắc, đi đầu trong đào tạo tài năng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Một số lĩnh vực của nhà trường nằm trong bảng xếp hạng 200-300 thế giới vào năm 2035.

Lãnh đạo nhà trường và các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm tại buổi lễ.

Các chỉ tiêu chiến lược cụ thể, về đào tạo: đến năm 2023, quy mô 15.000 người học, đến năm 2045 là 30.000 người học, trong đó kỹ sư/thạc sĩ chiếm 35%. Và là môi trường học tập quốc tế hóa cao.

Về khoa học công nghệ: Năm 2030, công bố 850 bài báo khoa học quốc tế uy tín, đến năm 2045, công bố khoảng 1800 bài báo quốc tế uy tín trong danh mục ISI/Scopus, trong đó bài báo Q1/Q2 chiếm 65%; Định hướng giải quyết các bài toán khoa học lớn của nhân loại.

Về phát minh, sáng chế, phấn đấu đến năm 2030 có 50 phát minh sáng chế, đến năm 2045 mục tiêu có 100 phát minh sáng chế.

Về chuyển giao, thương mại hóa sản phẩm, có 10 hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Về quan điểm phát triển, Trường Đại học Công nghệ là một trung tâm quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài trên các lĩnh vực khoa học công nghệ tiên tiến của cả nước và khu vực, gắn với phát triển bền vững, thực hiện trách nhiệm xã hội, trách nhiệm quốc gia, và phù hợp với xu thế tự chủ đại học

Phát triển giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học vị nhân sinh, là nguồn cung ứng nhân lực chất lượng cao và tri thức khoa học công nghệ quan trọng phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.

Từng bước mở rộng quy mô và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu của Nhà trường tại Khu đô thị đại học Hòa Lạc.

Hướng đến thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc tại Việt Nam (SDGs).

Về định hướng đào tạo, Chương trình đào tạo sẽ đa dạng, bao phủ các lĩnh vực khoa học công nghệ, STEAM, đảm bảo tính mở, liên ngành, tính tự học, thực hành thực tập thực tế,…

Về quản trị và hạ tầng, tiến tới quản trị đại học số, kết nối, cơ sở dữ liệu, học liệu mở; xây dựng phòng thí nghiệm, thực hành mở, cùng với kết nối doanh nghiệp.

Về định hướng khoa học công nghệ, Trường Đại học Công nghệ trở thành đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo với môi trường làm việc và nghiên cứu khoa học, có các phòng thí nghiệm công nghệ, hàn lâm, các phòng thí nghiệm hợp tác doanh nghiệp; Patent và Spin-off và có sản phẩm khoa học công nghệ có ảnh hưởng toàn cầu.

Đồng thời, nhà trường triển khai Đề án Tự chủ đại học; đến năm 2035 cơ bản hoàn thành đại học số; Từng bước thành lập các đơn vị mới có pháp nhân như các trường (School) và Viện trực thuộc; Xây dựng cơ chế đặc thù thu hút và trọng dụng nhân tài.

Phạm Minh

Bài viết liên quan: Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN phấn đấu vào tốp 200 thế giới năm 2045

Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045: Đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo tiên tiến của châu Á

Ngày 28/11/2023, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET) đã trang trọng tổ chức Lễ công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn 2045.

Tham dự buổi lễ về phía ĐHQGHN có PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng ban Đào tạo; TS. Lê Xuân Tình – Phó Trưởng ban Kế hoạch tài chính; TS. Trương Việt Hà – Phó Trưởng ban Tổ chức cán bộ. Về phía Trường ĐH Công nghệ có GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường, GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, các Phó Hiệu trưởng, các thầy nguyên lãnh đạo nhà trường qua các thời kỳ, lãnh đạo các đơn vị trong Trường, giảng viên và sinh viên. 

Các nhà khoa học, chuyên gia giáo dục, các nhà quản lý tham dự lễ công bố Chiến lược của Trường ĐH Công nghệ

Phát biểu khai mạc, GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường khẳng định, Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 có ý nghĩa đối với tiến trình xây dựng và phát triển của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Từ những ngày đầu thành lập Trường ĐH Công nghệ, mục tiêu và sứ mệnh phát triển đã được xác định và tuyên bố ngay khi thành lập Trường vào năm 2004 với Hiệu trưởng sáng lập là GS.VS Nguyễn Văn Hiệu. Đến năm 2019, Trường đã ban hành và điều chỉnh Chiến lược phát triển, tầm nhìn đến năm 2035. Trong 5 năm qua, Trường phát triển vượt bậc từ quy mô tuyển sinh từ 600 lên đến 1.850, một số lĩnh vực của Nhà trường được xếp hạng thế giới. Đặc biệt, lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ xếp hạng 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS.

GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường (bên trái) trao Nghị quyết ban hành chiến lược cho GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường

Có thể nói, Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn 2045 là niềm tin, trách nhiệm và sự đồng hành của Hội đồng Trường gửi gắm đến lãnh đạo Nhà trường. Chiến lược lần này tuy là sự thử thách, nhưng cũng là sự cam kết trách nhiệm của Nhà trường với ĐHQGHN và xã hội.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, điểm nổi bật trong Chiến lược là về quy mô đào tạo, phát triển các lĩnh vực để hoàn thiện cơ cấu đào tạo phù hợp với thời đại mới, xác định Trường ĐH Công nghệ sẽ vươn lên thành đại học nghiên cứu, đổi mới sáng tạo tiên tiến của châu Á và một số lĩnh vực sẽ vào top 300 trên bảng xếp hạng thế giới năm 2035 và top 200 trên bảng xếp hạng thế giới vào năm 2045.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức phát biểu tại buổi lễ

Tại buổi Lễ, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, đã thay mặt Ban Giám hiệu trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp triển khai Chiến lược phát triển Trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, Chiến lược phát triển của Nhà trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 với sứ mệnh, khẩu hiệu hành động và các định hướng thể hiện hoài bão, ý chí của tập thể viên chức và người lao động Nhà trường quyết tâm, đồng lòng thực hiện các mục tiêu chiến lược, tiếp tục xây dựng và phát triển “Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN là một địa chỉ tin cậy trong đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật công nghệ chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài của đất nước, khu vực và thế giới”.

GS.TS Chử Đức Trình  trình bày kế hoạch, lộ trình và các giải pháp triển khai Chiến lược phát triển Trường đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045

Lễ công bố Chiến lược phát triển Trường Đại học Công nghệ đến năm 2035, tầm nhìn năm 2045 đã diễn ra thành công. Chiến lược này vừa là mục tiêu, là thách thức nhưng cũng là động lực để Trường ĐH Công nghệ sẽ phát triển vượt bậc với các giá trị cốt lõi là uy tín, chất lượng cao – trình độ cao; trụ cột, tinh hoa và nhân văn; gắn đào tạo và nghiên cứu với thực tiễn và doanh nghiệp – với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khởi nghiệp – xứng đáng với kỳ vọng và niềm tin của phụ huynh và sinh viên, của ĐHQGHN và các thế hệ cha anh, với xã hội và đất nước. Thông qua chiến lược Trường ĐH Công nghệ sẽ thoát thai hoàn toàn từ cái áo Collge of Technology thuở ban đầu, thực sự trở thành University of Engineering and Technology – Trường đại học kỹ thuật công nghệ.

Những điểm mới căn bản nhất của Chiến lược:

Về Đào tạo: Bên cạnh các ngành, khoa như hiện nay, Trường sẽ phát triển thêm những lĩnh vực then chốt về yêu cầu nguồn nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 như (1) Cơ khí chế tạo máy; (2) Các khối ngành quản lý, quản trị kỹ thuật, công nghệ (quản lý năng lượng, kinh tế xây dựng, quản trị hệ thống công nghiệp, quản trị hệ thống thông tin, quản trị công nghệ,…); (3) Các lĩnh vực kỹ thuật công nghệ là vệ tinh của các công nghệ lõi mà xã hội đang rất cần và trường ĐH Công nghệ và Đại học Quốc Gia Hà Nội có thế mạnh nền tảng như Fintech, Logistics, Thiết kế công nghiệp và đồ họa, công nghệ bán dẫn, thiết kế chip và vi mạch,…

Theo Chiến lược phát triển, đến 2035, quy mô của trường ĐH Công nghệ có thể lên đến 20.000 sinh viên, với hơn 1200 cán bộ, giảng viên. Đến năn 2045, quy mô của trường lên 30.000 sinh viên với 1800 cán bộ giảng viên. Tỷ lệ kỹ sư và sau đại học sẽ chiếm tỷ lệ 35% trong tổng quy mô đào tạo của nhà trường.

Bên cạnh đó, sẽ đẩy mạnh hợp tác đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp để gắn với thực tiễn, và các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh để thúc đẩy trao đổi sinh viên và học giả quốc tế.

Sinh viên của trường phải giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, đẹp về trí tuệ, thể hình – có kỹ năng sống, nghị lực, hiểu và hành được minh triết và giàu tính nhân văn.

Về Khoa học Công nghệ: (1) Sẽ thúc đẩy mạnh mẽ và ưu tiên các nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao để có các sản phẩm quốc gia. (2) Tập trung xây dựng một số nhóm nghiên cứu mạnh trong Thiết kế chip và vi mạch, Khoa học máy tính, Trí tuệ nhân tạo, Cơ điện tử, Viễn thông, Công nghệ bán dẫn, Robotic, Vật liệu và kết cấu tiên tiến, Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông; Thiết kế, Tích hợp các hệ thống thông minh;…(3) Thành lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ của Nhà trường để có nguồn lực đầu tư cho tiềm lực khoa học công nghệ và con người (4) Xây dựng tạp chí khoa học công nghệ của trường lọt vào danh mục ISI của quốc tế. Công bố quốc tế trong danh mục các tạp chí quốc tế ISI có uy tín dự kiến sẽ đạt tối thiểu 700 bài ISI/năm vào năm 2035 và 1000 bài ISI vào năm 2045.

Đặc biệt đột phá về Cơ sở vật chất Chiến lược lần trước đề ra ở mức làm tốt công tác chuẩn bị lên Hòa Lạc. Thì lần này, điều chỉnh Chiến lược đề ra nhiệm vụ bắt tay ngay vào việc triển khai xây dựng các phòng thí nghiệm và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu của nhà trường trên Hòa Lạc, nhanh chóng biến Hòa Lạc thành tương lai và cơ hội phát triển mới của nhà trường, đồng hành cùng Đại học Quốc gia Hà Nội khai thác tối đa Hòa Lạc phục vụ cho phát triển của nhà trường trong giai đoạn mới.

Bài viết liên quan: Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN phấn đấu vào tốp 200 thế giới năm 2045

Trường Đại học Công nghệ làm việc với GS. John Ekaterinaris (USA) – Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ về lĩnh vực cơ học tính toán và công nghệ hàng không vũ trụ

Nhận lời mời của GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức và Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (ĐHCN), Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), ngày 22/11/2023, GS. John Ekaterinaris (USA) – Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (Q1, top 5%), đã sang thăm Trường ĐHCN để thực hiện một số trao đổi hợp tác trong nghiên cứu khoa học và có buổi chia sẻ về chủ đề “Construction of mode based reduced order models (ROM) for moving bodies” trong lĩnh vực cơ học chất lưu tại nhà E5.

Tham dự buổi nói chuyện có GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (CNXDGT) cùng lãnh đạo,  cán bộ, giảng viên, các nhà khoa học và nghiên cứu sinh của Khoa CNXDGT, Viện Hàng Không Vũ trụ, Khoa Công nghệ nông nghiệp, Khoa Cơ học Kỹ thuật & Tự động hóa và một số đơn vị nghiên cứu khác trong Trường.

Trong phần đầu của buổi nói chuyện, GS. John Ekaterinaris đã trình bày những nghiên cứu mới nhất liên quan đến Xây dựng mô hình giảm bậc (Reduced Order Models – ROM) cho các dòng khí động học phức tạp sử dụng phương pháp tách trực giao (Proper Orthogonal Decomposition – POD) kết hợp với mạng neural (Neural Networks – NN). Bên cạnh đó, với tư cách là tổng biên tập của tạp chí, GS. Ekaterinaris đã dành thời gian chia sẻ với sinh viên, giảng viên, nghiên cứu viên trẻ của Trường ĐH Công nghệ về chủ đề rất hữu ích “Làm thế nào để công bố trên tạp chí của Elsevier”.

GS. John Ekaterinaris (USA) – Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (Q1, top 5%)

Bài trình bày đã thu hút rất nhiều sự chú ý và thảo luận từ các nhà khoa học tham dự, mở ra cơ hội hợp tác đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực hàng không vũ trụ và ứng dụng các mô phỏng, cũng như thuật toán học máy, học sâu để giải quyết các vấn đề trọng điểm hiện đại của Kỹ thuật – Công nghệ giữa các nhà khoa học tại Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN với cộng đồng khoa học quốc tế.

Cùng ngày, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường và GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường đã tiếp và trao đổi với GS. John Ekaterinaris về chiến lược phát triển nhà trường, cũng như chính sách của Trường ĐH Công nghệ về việc thu hút các nhà khoa học trình độ cao, các chuyên gia có tầm ảnh hưởng quốc tế đến làm việc, hợp tác nghiên cứu mở ra những hướng nghiên cứu mới, hiện đại ở Trường ĐH Công nghệ trong những năm tới.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường (ngoài cùng, bên phải) và GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng nhà trường (thứ hai, bên trái ảnh) đã tiếp và trao đổi với GS. John Ekaterinaris (thứ hai, bên phải ảnh) về chiến lược phát triển nhà trường, cũng như chính sách về việc thu hút các nhà khoa học trình độ cao, các chuyên gia 

GS. John Ekaterinaris có hơn 50 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cơ học tính toán và Công nghệ Hàng không Vũ trụ.

GS John A. Ekaterinaris nhận bằng B.S. Tiến sĩ về Kỹ thuật Điện và Cơ khí tại Đại học Aristotle ở Thessaloniki, Hy Lạp vào tháng 10/1977. Bắt đầu nghiên cứu sau đại học ở Hoa Kỳ vào năm 1981 và lấy lại bằng Thạc sĩ về Kỹ thuật Cơ khí năm 1982 và bằng Tiến sĩ từ Trường Kỹ thuật Hàng không Vũ trụ năm 1987, cả hai đều tại Viện Công nghệ Georgia, Atlanta GA – USA.

Từ năm 1987 đến năm 1995, ông làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Cames của NASA tại Moffett Field CA, đồng thời là giảng viên tại Trường Sau đại học Hải quân tại Monterey CA. Ông đảm nhận vị trí Nhà khoa học nghiên cứu cấp cao tại Phòng thí nghiệm quốc gia RISOE ở Đan Mạch trong khoảng thời gian từ 1995 – 1997, nơi ông làm việc về năng lượng gió. Ông trở lại CA và làm việc tại Nielsen Engineering and Research (NEAR) từ 1997 – 2000.

Vào tháng 10/2000, ông đảm nhận vị trí Giám đốc Nghiên cứu tại FORTH/IACM và giữ chức vụ này cho đến năm 2005. Vào tháng 9/2005, ông gia nhập khoa Cơ khí và Kỹ thuật Hàng không Vũ trụ tại Đại học Patras. Ông gia nhập giảng dạy tại Đại học Hàng không Embry-Riddle vào tháng 8/ 2012.

Mối quan tâm của ông là cơ học tính toán (bao gồm khí động học, từ khí động học, điện từ, âm học, chuyển đổi dòng chảy, nghiên cứu nhiễu loạn và tương tác cấu trúc dòng chảy), các phương pháp bậc cao cho PDE, hiện tượng đa cấp độ, PDE ngẫu nhiên, cơ sinh học và gần đây là học máy và định lượng độ không đảm bảo. Ông là tác giả của hơn 60 bài báo. Ông là thành viên của Viện Hàng không và Du hành vũ trụ Hoa Kỳ (AIAA), nơi ông từng là thành viên của Ủy ban Kỹ thuật Cơ học Bay và Động lực học Chất lỏng, đồng thời là cộng tác viên của AIAA từ năm 1985.

Ông đã thực hiện nghiên cứu được tài trợ ở Hoa Kỳ và Châu Âu với Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) và thông qua các chương trình khung của EU. Ông cũng thực hiện nghiên cứu được tài trợ bởi các văn phòng của AFOSR và ARO. Ông là phó biên tập của Tạp chí Tiến bộ về Khoa học Hàng không Vũ trụ (JPAS) và là tổng biên tập của Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (AESCTE) – đều là những tạp chí hàng đầu của quốc tế trong lĩnh vực này.

(UET-News)

GS Nguyễn Đình Đức : Nghị quyết 29 có ý nghĩa lịch sử với giáo dục Việt Nam

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã chỉ ra 4 thành tựu tiêu biểu sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Phòng Thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ mạng lưới đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Ông là chuyên gia hàng đầu về vật liệu và kết cấu tiên tiến, đã công bố hơn 300 bài báo, công trình khoa học và là thành viên hội đồng quốc tế của 10 tạp chí quốc tế ISI có uy tín, là một trong những nhà khoa học xuất sắc góp phần định danh nền khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam trên bản đồ KHCN thế giới. 

Liên tục trong 5 năm liền, từ 2019 đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong 2 nhà khoa học đang làm việc ở Việt Nam vào top 10.000 các nhà khoa học có ảnh hưởng hàng đầu thế giới và xếp hạng top 100 thế giới trong lĩnh vực Engineering and Technology. 

Nhân dịp này, PV có bài phỏng vấn GS về những thành tựu và thách thức với giáo dục đại học Việt Nam sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29.

– Thưa GS, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, ông đánh giá những điểm được/chưa được của giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết này?

Đây là Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp chấn hưng giáo dục của nước nhà. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh CNH-HĐH và thế giới bước sang kỉ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0. Với 7 mục tiêu đã nêu ra trong Nghị quyết, có thể thấy đều là những mục tiêu và nội hàm quan trọng, cơ bản, cốt lõi, nền tảng – rất hiện đại và hội nhập, rất đúng, trúng và kịp thời.

Đã có nhiều hội nghị, hội thảo tổng kết và đánh giá về kết quả thực hiện NQ 29 ở những góc độ khác nhau. Thành tựu thì rất nhiều, riêng với giáo dục đại học Việt Nam, tôi thấy nổi bật lên 4 thành tựu tiêu biểu nhất như sau:

Trước hết, có thể đánh giá giáo dục đại học Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Có thể thấy chưa bao giờ giáo dục của Việt Nam đổi mới nhanh và mạnh mẽ, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế như những năm qua. Minh chứng rõ nhất cho nhận định này là những kết quả trong việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học. 

Đến nay, hầu hết tất cả các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng; 7 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đã được thành lập và được Bộ cấp phép hoạt động. 

Tính đến ngày 30/9/2023, cả nước đã có 186 cơ sở giáo dục đại học và 11 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam, chiếm hơn 70% tổng số các trường đại học, học viện trong cả nước; 9 cơ sở giáo dục đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá/kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA); có 1.297 chương trình đào tạo đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá; 1.143 chương trình đào tạo đã được kiểm định, đánh giá ngoài và 996 chương trình đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng. Chỉ trong vòng mấy năm gần đây, số các chương trình đào tạo được kiểm định đã tăng lên rất nhanh, gấp khoảng 8 lần so với năm 2020. 

Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài, nhà trường thấy được điểm mạnh, điểm yếu và xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực, hiệu quả hơn. Các cơ sở giáo dục đã thay đổi cách nhìn nhận về công tác đảm bảo chất lượng, tăng cường năng lực quản lí nhà trường, quản lí dạy, học.

Nếu kiểm định phản ánh chất lượng thì xếp hạng đại học nói lên đẳng cấp. Từ năm 2018, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục đại học Việt Nam, mới có 2 ĐHQG có tên trong danh sách xếp hạng 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng QS, thì nay, đại học Việt Nam đã có tên trong nhiều bảng xếp hạng uy tín của quốc tế như QS, THE, ARWU. Mới đây, tổ chức xếp hạng THE ranking đã công bố xếp hạng đại học tốt nhất thế giới năm 2023, có 6 trường đại học Việt Nam lọt thứ hạng khá cao trong bảng xếp hạng này là: Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân; trong đó một số ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong tốp 500-1000 thế giới… 

Chuyển biến đột phá về chất lượng, tiềm lực KHCNCách đây 10 năm, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường đại học của cả nước trung bình mới đạt khoảng 15%, thì nay, tỉ lệ này đã tăng gấp hơn 2 lần, đạt khoảng 32%. Số lượng, chất lượng đội ngũ tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, GS, PGS không yêu cầu bắt buộc về công bố quốc tế, thì nay, tiêu chuẩn chức danh bắt buộc yêu cầu GS, PGS đều phải có công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín. 

Đến nay, trong các cơ sở giáo dục đại học trên cả nước có khoảng hơn 1.000 nhóm nghiên cứu, trong đó có hàng trăm nhóm nghiên cứu mạnh, và từ các nhóm nghiên cứu mạnh đã tiến tới thành lập một số phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc, có vai trò dẫn dắt trong hoạt động khoa học công nghệ của quốc gia. 

Chất lượng của người học về chuyên môn, ngoại ngữ và tin học đều được yêu cầu cao hơn so với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ, đến nay đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu ra về ngoại ngữ bậc đại học là B1, với các chương trình quốc tế, tài năng, chất lượng cao sinh viên còn đạt chuẩn đầu ra cao hơn; yêu cầu ngoại ngữ đầu vào với bậc sau đại học hiện nay là B2 với cả bậc đào tạo thạc sĩ và tiến sỹ. Tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm được ngày càng tăng, đặc biệt sinh viên Việt Nam ngày càng tích cực tham gia thị trường lao động của toàn cầu, các công ty đa quốc gia trong nước và ở nước ngoài.

Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu, cho các nhóm nghiên cứu, công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng mạnh. Từ vị trí 59 (số bài báo là 4.017) năm 2014 đã vươn lên thứ 46 thế giới (số lượng bài báo là 18.466) năm 2022. Tổng số lượng bài báo quốc tế của Việt Nam là 97.520 bài trong giai đoạn 2014-2022 (nguồn:www.scimagojr.com). Không chỉ tăng về số lượng mà cả về chất lượng, chỉ số trích dẫn các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cũng ngày càng tăng. Mấy năm gần đây, một số nhà khoa học Việt Nam cũng đã có tên trong bảng xếp hạng các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng của thế giới được quốc tế đánh giá và bình chọn khách quan. Đây là những chuyển biến quan trọng về chất lượng đội ngũ, là kết quả rất đáng tự hào của giáo dục đại học Việt Nam.

Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nhân tài; chuyển dịch nhanh và mạnh mẽ cơ cấu ngành nghề đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0Thực hiện NQ 29, bên cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ GDĐT đã chỉ đạo các trường đại học tích cực triển khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Đội ngũ giảng viên tham gia các chương trình này được chọn là những giảng viên ưu tú của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài, nhằm phát triển, quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu. Bên cạnh đó, với chương trình 322, 911, Đề án 89, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ, ưu tú đi học đại học, thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đang tạo ra những cơ hội cũng như thách thức với Việt Nam. Giáo dục đại học Việt Nam đang tích cực chuyển đổi số, khối kiến thức STEM ngày càng được chú trọng ở bậc đại học. Bên cạnh đó đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nhanh và phù hợp. Tính từ đầu năm 2016 đến 8 tháng đầu năm 2023, tổng số ngành mở mới ở trình độ ĐH khoảng gần 300 ngành cho thấy giáo dục đại học của Việt Nam đang đi nhanh và đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0.

Tự chủ đại học được triển khai nhanh chóng, sâu rộng và trên nhiều mặt, nhất là sau khi Quốc hội ban hành Luật 34 năm 2018 về Luật giáo dục đại học sửa đổi. Thi hành Luật số 34, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Những chính sách về tự chủ đại học như luồng gió mới làm thay đổi hẳn diện mạo và cách thức quản trị đại học trong những năm gần đây. Theo báo cáo của Bộ GDĐT, đến cuối năm 2022 có tổng cộng 141/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học. Và đến tháng 8/2023, chỉ còn 4 trường đại học công lập chưa thành lập và 2 trường đại học tư thục chưa kiện toàn hội đồng trường.  

Thành tựu quan trọng nhất của tự chủ đại học trong thời gian qua là “cởi trói” cho các trường, từ đó tạo cơ chế để các trường chủ động thu hút và thúc đẩy tăng mạnh mẽ các nguồn lực để đầu tư cho chất lượng và phát triển. Gắn tự chủ với tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các trường. Tự chủ đại học đã thực sự là bước đột phá góp phần quan trọng nâng cao tiềm lực KHCN, nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng đội ngũ và chất lượng các hoạt động KHCN của các trường đại học trong vòng mấy năm qua, từ đó đẩy nhanh xếp hạng đại học, làm gia tăng nhanh chóng tiềm lực con người, cơ sở vật chất và năng lực hội nhập quốc tế của các trường đại học Việt Nam.

Tóm lại, trong khoảng 5 năm gần đây, việc thực hiện Nghị quyết 29 đã được các trường đại học tích cực triển khai toàn diện, mạnh mẽ và từ đó giáo dục đại học Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu rất quan trọng. Đó là giáo dục đại học của chúng ta đã hội nhập và theo chuẩn mực của quốc tế; đẩy mạnh tự chủ đại học, có sự đột phá về chất lượng và có sự chuyển mình mạnh mẽ về chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Những thành tựu đổi mới đó tác động đến toàn bộ hoạt động của ngành giáo dục, và sâu xa hơn, đến toàn thể xã hội, chi phối và làm đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục của nước nhà. 

Tôi thấy thành quả lớn lao nhất là từ chính những đổi mới đó, trong hệ thống giáo dục đại học, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận và nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của đất nước trong giai đoạn mới.

– Thưa GS, bên cạnh những thành tựu, theo ông, còn những hạn chế nào và để thực hiện tốt hơn nữa NQ29, thời gian tới cần có những giải pháp nào để thúc đẩy giáo dục đại học Việt Nam tiến nhanh và mạnh hơn nữa?

Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn những thiếu sót, hạn chế. 

Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chúng ta phải nâng cao chất lượng và làm tốt ở tất cả các khâu: tuyển sinh đầu vào; chương trình đào tạo; tổ chức giảng dạy và quản lí đào tạo, quản trị đại học (bao gồm các điều kiện đảm bảo chất lượng; đội ngũ, cơ sở vật chất, kiểm tra đánh giá); và chuẩn đầu ra. 

Đáp ứng một số chuẩn đầu ra của sinh viên Việt Nam như ngoại ngữ, tư duy và năng lực phản biện, kĩ năng nghề nghiệp còn thấp. Nhiều chương trình đào tạo còn thiếu gắn kết với nghiên cứu và thực hành, thực tiễn. Chất lượng giảng viên trong một số trường, một số lĩnh vực còn yếu và thiếu.

Đặc biệt là đầu tư cho giáo dục đại học còn thấp; đầu tư cho nghiên cứu, cho các nhóm nghiên cứu dàn trải và kinh phí nhỏ giọt, trong khi thủ tục xét, giao đề tài chậm, thanh quyết toán lại rườm rà. Cơ chế hợp tác với các doanh nghiệp, đầu tư của doanh nghiệp cho đại học cũng còn nhiều rào cản. 

Việc áp lực thi cử, tạo điều kiện cho các trường tự chủ, cho tất cả các em thí sinh hầu như ai cũng được đỗ đại học, đã nảy sinh nhiều vấn đề như: quá nhiều phương án và tổ hợp xét tuyển; chất lượng tuyển sinh đầu vào một số trường đại học và nhiều ngành còn thấp. Trong thời gian tới phải tiếp tục nghiên cứu và cải tiến, đổi mới mạnh hơn nữa công tác tuyển sinh; phát huy vai trò cầm trịch về mặt bằng chất lượng đầu vào đại học của cơ quan quản lí Nhà nước.

Một điểm nữa không thể không nhắc đến là tự chủ đại học. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà tự chủ đại học mang lại trong thời gian qua, cũng phải thừa nhận đây là mô hình triển khai rất mới mẻ ở Việt Nam và cần phải tiếp tục hoàn thiện. 

– Được biết, năm nay GS tăng xếp hạng từ top 94 lên hạng thứ 85 thế giới trong lĩnh vực Engineering và Technology. Chia sẻ của GS về thành tích này?

Tôi bất ngờ và thấy rất vui và tự hào. Sự kiên trì, bền bỉ làm việc và miệt mài nghiên cứu suốt mấy chục năm qua cuối cùng cũng được ghi nhận và đền đáp.  

Nhà khoa học cống hiến không vì để xếp hạng, không phải vì hư danh, nhưng được quốc tế đánh giá, xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín một cách công bằng và khách quan là một niềm tự hào, vinh dự. Nếu không có cơ sở dữ liệu để đánh giá, định lượng kết quả nghiên cứu của nhà khoa học và ảnh hưởng của nó theo các chuẩn mực quốc tế, Việt Nam chúng ta sẽ không biết được mình đang ở đâu so với các đồng nghiệp quốc tế, và không biết bao giờ các bạn trẻ tài năng và nỗ lực vượt bậc mới được thừa nhận, được tôn vinh, để từ đó có thêm động lực và niềm tin tiếp tục phấn đấu, dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học đầy gian truân. 

Thành công của tôi cũng là thành công và niềm vui của nhóm nghiên cứu, của các thế hệ học trò và cũng là niềm vui và thành công của nhà trường, của Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tôi cho rằng việc các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế cũng là niềm tự hào, là minh chứng về thành tựu của nền Giáo dục Đại học và Khoa học của Việt Nam.

– Xin cảm ơn GS đã chia sẻ!

Thanh Nga

Sinh viên Trường ĐH Công nghệ đạt giải tại cuộc thi quốc tế về Thiết kế thực tế ảo

Ở vòng chung kết của cuộc thi Thiết kế thực tế ảo lần thứ 13 – The 13th Student BIM&VR Design World Cup diễn ra tại Nhật Bản từ ngày 08-10/11/2023, hai nhóm sinh viên của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đều xuất sắc giành Giải thưởng do giám khảo bình chọn (Honorable Judge Award).

The 13th Student BIM&VR Design World Cup là cuộc thi thường niên dành riêng cho thiết kế do công ty FORUM8 (Nhật Bản) tổ chức cho sinh viên trên toàn thế giới. Cuộc thi năm nay bắt đầu từ tháng 06/2023 với 52 đội tham dự (đến từ 9 nước, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Newzealand, Myanmar, Thái Lan, Lào) để chọn ra 9 đội vào vòng chung kết diễn ra tại Nhật Bản.

Chủ đề của cuộc thi năm 2023 là “Hai thay đổi lớn tại nơi sở hữu cảnh quan nguyên thủy của Nhật Bản – Tính di động và Phong cách sống ở thành phố Ena trong tương lai”. Đây được coi là thách thức lớn đối với sinh viên nhưng các đội tham dự vòng chung kết đều đã có những giải pháp hay và mang tính sáng tạo cao. Dưới sự hỗ trợ của bà Trần Thị Luyến (Công ty Forum8 Việt Nam), hai đội của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, Trường ĐH Công nghệ gồm Big Bang (Lê Khánh Toàn – Đội trưởng, Lê Đức Trung, Lê Anh Nhật, Trịnh Quang Minh, Nguyễn Nam Khánh) với dự án The Circle City và Dream Team (Nguyễn Đăng Hải – Đội trưởng, Nguyễn Tiến Anh, Nguyễn Thị Hương, Trần Xuân Thành) với dự án The Memorial Sakura City đều được ban giám khảo đánh giá rất cao năm nay.

Thành công này một lần nữa cho thấy chất lượng đào tạo tại Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN sự lớn mạnh không ngừng của Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (của Ngành Kỹ sư Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng) sau 5 năm hình thành, phát triển và dẫn dắt bởi người sáng lập GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.

Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN ký kết hợp tác với Công ty cổ phần FECON: Đồng hành phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực xây dựng – giao thông

Ngày 26/10/2023, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET) đã ký kết thỏa thuận hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học với Công ty Cổ phần FECON.

Tham dự buổi làm việc, về phía Trường ĐH Công nghệ có GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường, GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, lãnh đạo phòng KHCN&HTPT, phòng Đào tạo và Trung tâm Đảm bảo chất lượng.

Về phía Công ty cổ phần FECON có ông Phạm Việt Khoa – Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông Trần Trọng Thắng – Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị cùng đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức nhân sự, Ban Kỹ thuật và R&D, Ban Phát triển dự án và Đoàn Thanh niên.

Toàn cảnh lễ ký kết thỏa thuận hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu khoa học với Công ty Cổ phần FECON

Cơ sở hạ tầng luôn là yêu cầu tiên quyết cho sự phát triển về kinh tế xã hội của đất nước, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp mới, để tạo bước đột phá trong lĩnh vực này cần sự kết hợp để phát huy sức mạnh tổng hợp. Phát huy tinh thần đó, Trường Đại học Công nghệ nói chung, Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông nói riêng, không chỉ nỗ lực mang lại chương trình đào tạo chất lượng cao, đáp ứng xu thế của thời đại, nhu cầu của xã hội, mà còn không ngừng mở rộng kết nối, hợp tác với các đối tác là các doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực. Buổi lễ ký kết giữa Trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN và Công ty cổ phần FECON, chính là khởi đầu cho việc hợp tác song phương bền vững trong tương lai giữa hai đơn vị, hướng đến thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, đem lại những giá trị ý nghĩa thiết thực cho người dạy, người học.

Phát biểu tại lễ ký kết, GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ gửi lời cảm ơn về sự đồng hành và hợp tác của FECON trong các lĩnh vực đào tạo của Nhà trường trong nhiều năm qua. Ngay từ những ngày đầu thành lập với sự quyết tâm từ phía GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường và dựa trên thế mạnh của Nhà trường về công nghệ thông tin – truyền thông, Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông được thành lập do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm Chủ nhiệm khoa. Đến nay với xu hướng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, định hướng của Nhà trường lấy nền tảng công nghệ thông tin – truyền thông gắn liền với các chương trình đào tạo, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng – giao thông cho thấy vai trò của sinh viên, kỹ sư có kiến thức hàn lâm tốt, kiến thức liên ngành rất quan trọng. Hiệu trưởng khẳng định: “Mặc dù, Khoa còn non trẻ nhưng những thành tích khoa học công nghệ rất tốt và là một trong những đơn vị có chất lượng tuyển sinh đầu vào chất lượng cao trong các trường đại học lĩnh vực xây dựng – giao thông”.

Với sự hợp tác hai bên, Hiệu trưởng tin tưởng rằng, trong thời gian tới công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của Khoa sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, từ đó Nhà trường sẽ đào tạo thêm nhiều sinh viên chất lượng cao phù hợp xu thế công nghệ số, đáp ứng yêu cầu đối với xã hội và doanh nghiệp.

GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN cũng hy vọng trong thời gian tới, hai bên sẽ đồng hành và hỗ trợ trong các hoạt động đào tạo và NCKH dựa trên thế mạnh của từng đơn vị

Ông Phạm Việt Khoa – Chủ tịch Hội đồng quản trị FECON bày tỏ sự vui mừng khi được hợp tác với Trường và nhấn mạnh đây là sự kiện quan trọng của hai đơn vị. Bên cạnh đó, ông Phạm Việt Khoa đã nhắc đến lịch sử hình thành và thành tích trong lĩnh vực hạ tầng của công ty. Hơn 19 năm xây dựng và phát triển, FECON xuất phát từ doanh nghiệp 15 người với vốn 2,5 tỷ đến nay đã tăng lên 1.000 người và sự phát triển về tài chính, lĩnh vực FECON tập trung là nền móng và công trình ngầm. Nói đến nguồn nhân lực và nhu cầu việc làm trong lĩnh vực xây dựng – giao thông, ông Phạm Việt Khoa nhấn mạnh: “Trên thế giới các nước phát triển với mức độ đô thị hóa tầm 65-70%, trong khi đó Việt Nam hiện nay mới đạt mức 35%. Với bối cảnh đất nước phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đô thị hóa cũng sẽ tăng theo. Vì vậy, nhu cầu phát triển đô thị hạ tầng vô cùng lớn như xây dựng công trình, nhà máy…. sẽ ngày càng nhiều”. Trong tương lai, ông Phạm Việt Khoa khẳng định, hợp tác này sẽ mở ra triển vọng phát triển bền vững cho cả hai bên, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng – giao thông.

Ông Phạm Việt Khoa – Chủ tịch Hội đồng quản trị FECON phát biểu tại buổi lễ

Tại buổi lễ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Chủ nhiệm khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, đồng thời GS là người khởi xướng và sáng lập ngành Công nghệ xây dựng – giao thông tại ĐHQGHN gửi lời cảm ơn và đánh giá cao sự hợp tác giữa Trường ĐH Công nghệ và Công ty cổ phần FECON, đặc biệt là sự hỗ trợ cho Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông. Giáo sư nhấn mạnh: “Từ năm 2018 đến nay, số lượng sinh viên của Khoa đã tăng gần 600 sinh viên, mặc dù mới thành lập nhưng điểm đầu vào những năm gần đây cao nhất ngành kỹ thuật xây dựng trong cả nước, sinh viên có nền tảng kiến thức và kỹ năng tốt, 100% sinh viên ra trường có việc làm; đội tuyển sinh viên của Khoa đã đạt giải quốc tế; nhiều sinh viên giữ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. Đó là thế mạnh của sinh viên UET để khi ra trường các em có nền tảng kiến thức chuyên ngành phục vụ cho việc tiếp cận và thích ứng với nhiều ngành nghề trong lĩnh vực xây dựng – giao thông”. Giáo sư mong muốn hai bên sẽ cùng hợp tác trong việc đồng hướng dẫn thạc sĩ, nghiên cứu sinh để người học được trau dồi thêm kiến thức hàn lâm và thực tiễn.

Hai bên trao nhau những phần quà ý nghĩa (ảnh từ trái sang: ông Trần Trọng Thắng, Phó chủ tịch hội đồng quản trị; ông Phạm Việt Khoa, Chủ tịch hội đồng quản trị công ty FECON; GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng; GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN)

Nội dung ký kết giữa hai bên liên quan đến phối hợp xây dựng các chương trình đào tạo; hợp tác tổ chức hội nghị, hội thảo; hợp tác trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học dựa trên thế mạnh của từng đơn vị, trong đó có công tác thực tập và cấp học bổng cho sinh viên.

GS. TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ và ông Phạm Việt Khoa – Chủ tịch Hội đồng quản trị FECON  ký thỏa thuận hợp tác giữa 2 bên

Buổi lễ ký kết giữa Trường ĐH Công nghệ với Công ty cổ phần FECON đã diễn ra thành công tốt đẹp. Hy vọng đây sẽ là một bước tiến mới, nhằm thiết lập mối quan hệ hợp tác song phương, đem lại cơ hội và thành tựu mới cho hai trường cũng như nâng cao chất lượng nhân lực ngành Công nghệ xây dựng – giao thông. 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Người kiến tạo và sáng lập ngành Civil Engineering ở ĐHQGHN.

 (UET-News)

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Mạng lưới bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Ngày 16/10/2023, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã ra Quyết định số 58/QĐ-HH-CLB về việc thành lập Câu lạc bộ Mạng lưới Bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam (BĐCL GDĐH Việt Nam) và Quyết định số 59/QĐ-HH-CLB cử GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ.

Thành viên của Câu lạc bộ (CLB) là các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), cao đẳng, các tổ chức/doanh nghiệp quan tâm đến các hoạt động của CLB, các chuyên gia và các nhà khoa học để xây dựng và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục của các cơ sở giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo và nghiên cứu trong các cơ sở GDĐH, bao gồm các hoạt động như tuyển sinh, phát triển chương trình, giáo trình, cập nhật tài liệu chuyên môn, đổi mới phương pháp và công nghệ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau để phát huy tốt ảnh hưởng của các trường có lợi thế, hỗ trợ các trường còn khó khăn, góp phần hiệu quả nâng cao chất lượng GDĐH của Việt Nam.

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ Mạng lưới bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Một trong những phương hướng hoạt động của Câu lạc bộ là sẽ căn cứ và bám sát theo Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 – 2030” do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2022 với mục tiêu là “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng Khung bảo đảm chất lượng ASEAN, góp phần quan trọng thúc đẩy tự chủ giáo dục đại học, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm” và góp phần thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.

CLB sẽ phối hợp với các cơ sở GDĐH, các trung tâm/viện nghiên cứu triển khai phối hợp nghiên cứu và tổ chức các hội thảo khoa học về những vấn đề liên quan đến việc BĐCL GDĐH như: Các nội dung và giải pháp nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo, chất lượng tuyển sinh đầu vào; đổi mới chương trình đào tạo; nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động khảo thí và kiểm định chất lượng trong các cơ sở GDĐH ; đẩy mạnh STEM trong giáo dục đại học; các giải pháp thúc đẩy tự chủ đại học; ứng dụng công nghệ hiện đại và trí tuệ nhân tạo (AI) trong GDĐH; chia sẻ tài nguyên, học liệu; nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và chất lượng các hoạt động NCKH của các cơ sở GDĐH nhằm đáp ứng những yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, hội nhập quốc tế và phục vụ cộng đồng của các trường đại học; thúc đẩy, tạo lập mối liên kết 4 nhà: nhà khoa học, nhà trường, nhà nước và doanh nghiệp gắn với địa bàn, khai thác thị trường; hỗ trợ, tạo cơ hội tìm việc làm cho sinh viên tốt nghiệp; hợp tác, liên kết với các tổ chức xã hội – nghề nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, các hội nghề nghiệp trong cả nước hoặc địa phương; đóng góp vào các hoạt đông nhằm chủ động đóng góp trí tuệ, sức sáng tạo của các trường đại học hội viên, cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao, các dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ xã hội khác có chất lượng, củng cố uy tín của Câu Lạc bộ, của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam và góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng GDĐH Việt Nam.

Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, liên quan đến các hoạt động bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học (bao gồm chất lượng đầu vào, chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo, tổ chức quản lý đào tạo, công nghệ giáo dục, nguồn nhân lực, kiểm tra đánh giá, khảo thí, kiểm định,….) nhằm nâng cao chất lượng  và thúc đẩy giáo dục đại học Việt Nam hội nhập với các chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh tự chủ đại học.

Ban Chủ nhiệm lâm thời của Câu lạc bộ bao gồm Lãnh đạo của 12 cơ sở giáo dục đại học phía Bắc, miền Trung và phía Nam. GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng trường Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN làm Chủ nhiệm Câu Lạc bộ.

Theo kế hoạch, trong tháng 12, Câu lạc bộ sẽ tổ chức Lễ ra mắt và công bố kế hoạch hành động cho năm tới.

Bài viết liên quan:

ĐHQGHN: Thành lập Câu lạc bộ Mạng lưới Bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Tuổi trẻ: Thành lập Câu lạc bộ Mạng lưới bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Giáo dục Thủ đô: Thành lập Câu lạc bộ Mạng lưới bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Giáo dục Việt Nam: Thành lập CLB Mạng lưới bảo đảm chất lượng GDĐH Việt Nam trực thuộc Hiệp hội

Đại biểu nhân dân: Thành lập Câu lạc bộ mạng lưới bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Đài Tiếng nói Việt Nam: GS Nguyễn Đình Đức làm chủ nhiệm CLB Mạng lưới Bảo đảm chất lượng GD đại học

Người Lao động: Thành lập CLB Mạng lưới Bảo đảm chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam

Hội thảo những kết quả về vật liệu và kết cấu tiên tiến

Ngày 11/10/2023, Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học những kết quả nghiên cứu về vật liệu và kết cấu tiên tiến do GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ chủ trì. Hội thảo đặc biệt được tổ chức vào ngày sinh nhật tròn 60 tuổi của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.

Toàn cảnh hội thảo

Tham dự hội thảo về phía ĐHQGHN có PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hải – Phó Giám đốc, PGS.TS Phạm Xuân Hoan – Trưởng Ban Kế hoạch Tài chính, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng Ban Đào tạo, PGS.TS Lê Tuấn Anh – Phó Trưởng Ban Hợp tác phát triển, GS.TS Hoàng Anh Tuấn – Hiệu Trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, PGS.TS Trần Quốc Bình – Phó Hiệu Trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, PGS.TS Phạm Văn Thuần – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, PGS.TS Nguyễn Văn Định, Phó Hiệu trưởng Trường Quốc tế, TS Hoàng Trọng Nghĩa – Phó chủ nhiệm Khoa các khoa học liên ngành. Về phía khách mời có TS. Phạm Thế Dũng, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ, Bộ Khoa học Công nghệ; GS.TSKH Nguyễn Tiến Khiêm – Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, các Phó Chủ tịch Hội Cơ học Vật rắn biến dạng – GS.TS Trần Minh Tú và PGS.TS Đào Như Mai; Viện Trưởng Viện Cơ học TS Trần Thanh Hải; Chủ nhiệm Khoa Cơ khí Học viện Kỹ thuật quân sự – GS.TS Nguyễn Thái Chung; TS. Hà Minh – Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tư vấn công nghệ, thiết bị và Kiểm định xây dựng – CONINCO; TS. Phạm Hồng Công, Phó Giám đốc Trung tâm Tin học và Tính toán – Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam; TS. Phạm Văn Thu, Phó Viện Trưởng Viên nghiên cứu và Chế tạo tàu thủy – Đại học Nha Trang  và các đồng chí, đồng nghiệp, cộng sự, học trò của GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức trong ĐHQGHN và từ khắp các trường đại học trong cả nước.

Về phía Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN có GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Nhà trường, TS Nguyễn Thu Hương – Phó Hiệu Trưởng, cùng lãnh đạo các phòng, ban, các đơn vị của nhà trường, và các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông.

GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ gửi lời chúc mừng nhân dịp GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tròn 60 tuổi

Phát biểu tại hội thảo, GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ gửi lời chúc mừng nhân dịp GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tròn 60 tuổi, nhắc lại quá trình công tác của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức từ những ngày GS.VS. Nguyễn Văn Hiệu thành lập Khoa Công nghệ cho đến nay là Trường ĐH Công nghệ. Sau đó, GS Nguyễn Đình Đức đã kinh qua nhiều vị trí công tác chủ chốt tại ĐHQGHN như Khoa Sau đại học, Trưởng Ban Khoa học công nghệ, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ,Trưởng Ban Đào tạo..Hiện nay GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công Nghệ, đồng thời là người thành lập và  Chủ nhiệm khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông thuộc trường. Dù ở vị trí nào Giáo sư  đều thể hiện được năng lực, tầm nhìn của nhà quản lý, nhà khoa học và có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của ĐHQGHN nói chung và Trường ĐH Công nghệ nói riêng.

Ở lĩnh vực mở ngành, thầy hiệu trưởng Chử Đức Trình đánh giá cao sự tiên phong và quyết liệt của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong việc thành lập Khoa Công Nghệ Xây dựng – Giao thông  tại Trường ĐH Công nghệ. Đến nay, Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông đã có hai khóa sinh viên tốt nghiệp với sự khẳng định về chất lượng đào tạo và tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm rất cao. Bên cạnh đó, GS Đức cũng là người sáng lập, mở ngành và là Giám đốc Chương trình đào tạo Thạc sỹ và Đại học trong lĩnh vực Civil Engineering của trường ĐH Việt Nhật, ngành kỹ sư Tự động hóa và Tin học của Trường Quốc tế, ĐHQGHN. Năm 2022, lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ của ĐHQGHN đã được xếp hạng 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS.

Đặc biệt, những đóng góp vô cùng quan trọng của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đối với Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN, với cộng đồng học thuật trong và ngoài nước và xã hội trong suốt mấy chục năm qua được các đại biểu tham gia hội thảo khẳng định. Điều đó thể hiện qua thành tựu nghiên cứu khoa học của GS trong lĩnh vực vật liệu mới và cơ học, đó là vật liệu và kết cấu composite polymer dùng trong đóng tàu và chuyển đổi năng lượng; vật liệu siêu bền nhiệt cácbon-cácbon dùng trong hàng không và vũ trụ; các composite độ bền cao có cấu trúc 3D, 4D; vật liệu chức năng có cơ lý tính biến đổi FGM, nanocomposite thế hệ mới FG CNTRC, vật liệu và kết cấu auxetic chống tải trọng nổ và các tải va đập; vật liệu có hệ số poát xông âm,… Đến nay, trường phái và nhóm nghiên cứu về vật liệu và kết cấu tiên tiến của GS Đức đã vươn tầm, có uy tín cao trong nước và quốc tế.

Ngoài ra, GS Chử Đức Trình nhấn mạnh đến nhiệt huyết, sự say mê cống hiến trong nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức. Đó là nguồn động viên, truyền lửa nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên trẻ trong Khoa nói riêng và trong toàn Trường nói chung. Từ đó, Nhà trường sẽ có thêm nhiều thế hệ cán bộ trẻ tiếp nối thành tựu của các thế hệ thầy, cô đi trước, đặc biệt là GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.

Trên cương vị quản lý, GS Nguyễn Đình Đức đã có những đóng góp quan trọng. Khi làm Trưởng Ban Khoa học Công nghệ (2005-2008), GS Đức là người chắp bút xây dựng Kế hoạch Chiến lược Khoa học Công nghệ của ĐHQGHN giai đoạn 2005-2010; xây dựng Quy định 973 năm 2007 – Quy định đầu tiên của ĐHQGHN về quản lý các đề tài dự án KHCN; Đề xuất xây dựng, đầu tư và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN; Xây dựng Đề án và thành lập Quỹ phát triển KHCN của ĐHQGHN (2008); Xây dựng chương trình hợp tác giữa ĐHQGHN và Bộ Khoa học Công nghệ; giữa ĐHQGHN và Trung tâm KHCN Quân sự – Bộ Quốc phòng; Trên cương vị là Trưởng Ban Đào tạo, từ 2012, GS Đức đã tích cực xây dựng và triển khai đề án đào tạo nhân lực cho các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc; từ 2014 đã xây dựng các quy chế đặc thù cho học sinh chuyên; năm 2013-2015 xây dựng. triển khai và hoàn thiện Đề án Đổi mới tuyển sinh theo đánh giá năng lực; 2017 – Đề án đổi mới đào tạo Tiến sĩ ở ĐHQGHN; 2018-2019 Đề án Đổi mới hoạt động giảng dạy; Xây dựng các quy chế đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ của ĐHQGHN,…

Với kinh nghiệm thực tiễn và hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực quản lý giáo dục, GS Nguyễn Đình Đức là chuyên gia có uy tín, đã đóng góp nhiều ý kiến có giá trị xây dựng các quy định, chính sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học Công nghệ và nhiều cơ quan của Nhà nước.

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hải – Phó Giám đốc ĐHQGHN (ngoài cùng, bên phải ảnh) chúc mừng GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Phát biểu tại hội thảo, PGS. TS. Nguyễn Hoàng Hải – Phó Giám đốc ĐHQGHN nhấn mạnh GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là minh chứng về giá trị đào tạo của ĐHQGHN ngày nay (trước là ĐH Tổng hợp Hà Nội) về nền tảng khoa học cơ bản vững chắc, giúp người học có tầm nhìn và năng lực thích ứng với sự vận động, phát triển của xã hội sau này. Thay mặt lãnh đạo ĐHQGHN, Phó Giám đốc chúc mừng và ghi nhận, đánh giá cao về những thành tích trong nghiên cứu, đào tạo và đóng góp của Giáo sư Đức với nhà trường và với ĐHQGHN. GS Đức là tấm gương và động lực để thôi thúc đội ngũ giảng viên trẻ, sinh viên, các thế hệ học trò tiếp nối những giá trị truyền thống, tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của nhà trường và ĐHQGHN.

GS.TSKH Nguyễn Tiến Khiêm – Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam nhấn mạnh, với ngành Cơ học, GS Nguyễn Văn Đạo là người đã có công lao sáng lập ngành Cơ học Việt Nam và công lao thành lập Khoa Cơ Kỹ thuật; GS Nguyễn Văn Hiệu là Hiệu trưởng đầu tiên, có công lao xây dựng và phát triển Trường ĐH Công nghệ, và GS Nguyễn Đình Đức – với những cống hiến của mình,  là người có công lao gắn ngành Cơ học với Công nghệ, đây là hướng đúng đắn và rất phú hợp với xu thế của thời đại, sẽ thúc đẩy sức sống mãnh liệt của ngành Cơ học trong Kỹ thuật và Công nghệ của nước nhà. 

Tại Hội thảo, GS Đức đã chia sẻ những kỷ niệm đáng nhớ trong hành trình 40 năm nghiên cứu khoa học: không ít khó khăn, thử thách, nhưng với sự nhẫn nại, kiên trì, sự ủng hộ, động viên khích lệ và giúp đỡ, đồng hành của lãnh đạo ĐHQGHN và lãnh đạo Trường Đại học Công nghệ, của các đồng nghiệp và học trò, GS đã vững bước trên con đường mà mình đã chọn.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ những kỷ niệm đáng nhớ trong hành trình 40 năm nghiên cứu khoa học

Phần thảo luận diễn ra sôi nổi và cảm động với nhiều chia sẻ về kỷ niệm tình đồng nghiệp, tình thầy trò của GS Đức trong những năm tháng cống hiến cho sự nghiệp trồng người; về những về định hướng nghiên cứu mới, tiên phong của GS Đức và nhóm nghiên cứu trong lĩnh vực vật liệu mới và kết cấu tiên tiến.

Nhân dịp này, GS. Lê Quân – Giám đốc ĐHQGHN và Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN đã gửi lẵng hoa chúc mừng GS Nguyễn Đình Đức.

Đến nay, GS Nguyễn Đình Đức đã công bố hơn 300 bài báo, công trình khoa học, trong đó có hơn 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI. GS đã và đang đào tạo 20 nghiên cứu sinh, trong đó 13 nghiên cứu sinh đã nhận bằng tiến sĩ, là thành viên hội đồng biên tập 10 tạp chí quốc tế; phản biện cho 75 tạp chí quốc tế; tổ chức nhiều hội thảo khoa học quốc tế tại ĐHQGHN… 

Một số hình ảnh tại hội thảo: 

Hội thảo đặc biệt được tổ chức vào ngày sinh nhật tròn 60 tuổi của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

GS.TSKH Nguyễn Tiến Khiêm – Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam (ngoài cùng, bên phải ảnh) chúc mừng GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Tập thể Trường ĐH Công nghệ và giảng viên, cán bộ Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông chúc mừng GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức chụp ảnh lưu niệm với các thế hệ NCS

47 người Việt vào top nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới 2023

Các nhà khoa học Việt vào danh sách “100.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng” tăng mạnh về số lượng và thứ hạng, được đánh giá trên nhiều chỉ số, trong đó có số trích dẫn nghiên cứu.

Bảng xếp hạng được Nhà xuất bản Elsevier (chủ cơ sở dữ liệu Scopus) công bố, chọn ra nhóm các nhà khoa học thuộc top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới dựa theo bài báo khoa học được trích dẫn nhiều nhất (trong tổng số gần 210.000 nhà khoa học được xếp hạng). Danh sách xếp hạng được đưa ra bởi nhóm nhà khoa học của GS John P.A. Ioannidis cùng các cộng sự thuộc Đại học Stanford (Mỹ), xây dựng trên căn cứ khai thác cơ sở dữ liệu Scopus.

Theo bảng xếp hạng, danh sách 100.000 nhà khoa học có tầm ảnh hưởng có 64 cá nhân đang công tác tại các trường đại học của Việt Nam, trong đó có 47 người là nhà khoa học Việt. So với năm 2022, danh sách này tăng thêm 12.

Ở top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới, Việt Nam có 7 người, tăng 5 người so với năm 2022. Gồm PGS.TS Hoàng Anh Tuấn (trường Đại học Công nghệ TP HCM, xếp hạng 1.119), PGS.TS Trần Xuân Bách (Đại học Y Hà Nội, xếp hạng 3.240), TS Phạm Thái Bình (trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải, xếp hạng 4.444), TS Hoàng Nhật Đức (Đại học Duy Tân, xếp hạng 5.551), GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 5.657), TS Trần Nguyễn Hải (trường Đại học Duy Tân xếp hạng 6.669), và PGS.TS Lê Hoàng Sơn (Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 6.982).

Danh sách này có PGS.TS Lê Hoàng Sơn và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội). Hai người này đều lọt vào top 5 năm liên tiếp 2019, 2020, 2021, 2022 và 2023.

GS Nguyễn Đình Đức là một trong hai nhà khoa học Việt có 5 năm liên tiếp lọt top nhà khoa học hàng đầu thế giới. Ảnh: VNU

Nhiều nhà khoa học có thứ hạng tăng mạnh so với năm trước, như PGS.TS Hoàng Anh Tuấn (trường Đại học Công nghệ TP HCM, xếp hạng 1.119 – năm 2022 là 17.415), PGS.TS Trần Xuân Bách (Đại học Y Hà Nội, xếp hạng 3.240 – năm 2022 là 12.132), TS Trần Nguyễn Hải (trường Đại học Duy Tân xếp hạng 6.669 – năm 2022 là 13.713), TS Phạm Thái Bình (trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải, xếp hạng 4.444 – năm 2022 là 47.240), TS Vương Quân Hoàng (Đại học Phenikaa, xếp hạng 31.057 – năm 2022 là 61.452), TS Võ Nguyễn Đại Việt (trường ĐH Nguyễn Tất Thành, xếp hạng 35.261 – năm 2022 là 93.438), TS Chu Đình Tới (Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 44.378- năm 2022 là 66.906).

TS Trần Nguyễn Hải, thành viên Ban biên tập cho 12 tạp chí quốc tế chuẩn ISI, nằm trong top nhà khoa học có thứ hạng tăng mạnh so với năm 2022. Ảnh: Hai Tran

Danh sách cũng có nhiều gương mặt mới như PGS.TS Phạm Văn Việt (trường Đại học Công nghệ TP HCM, xếp hạng 57.893), PGS.TS Bùi Xuân Thành (trường Đại học Bách khoa, ĐHQG TP HCM, xếp hạng 98.112).

Nhiều nhà khoa học nước ngoài đang làm việc tại các trường đại học của Việt Nam như Đại học Duy Tân, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học VinUni, Trường ĐH Kinh Tế TP HCM cũng có trong danh sách.

TS Vương Quân Hoàng cũng nằm trong nhóm nhà khoa học có thứ hạng tăng vượt trội so với danh sách năm 2022. Ảnh: Đại học Phenikaa.

Bảng xếp hạng 100.000 người có bài báo khoa học được trích dẫn nhiều nhất được công bố lần đầu tiên trên tạp chí PLoS Biology vào 8/2019. Bảng xếp hạng sử dụng nguồn cơ sở dữ liệu của Scopus (thuộc NXB Elsevier) từ năm 1960 đến tháng 10/2023.

Các tiêu chí đánh giá dựa theo các chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học (tổng số trích dẫn, chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index được điều chỉnh đồng tác giả, số trích dẫn các bài báo được đăng với tư cách tác giả duy nhất, tác giả chính và tác giả cuối cùng, và một chỉ số tổng hợp). Các nhà khoa học được phân thành 22 lĩnh vực chính và 174 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành), trong đó các nhà khoa học cần có tối thiểu 5 bài báo. Các dữ liệu cho thấy tác động của họ trong suốt sự nghiệp và trong năm qua.