GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Chuyện thú vị về nhà khoa học có thẻ nhà báo

Thật thú vị khi GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức, thành viên Hội đồng biên tập Tạp chí quốc tế về Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ (top 5% thế giới) và một số tạp chí khoa học quốc tế uy tín khác cũng là một nhà báo.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) – cho hay, bên cạnh làm khoa học, ông đồng thời là nhà báo, đã có thẻ nhà báo hơn 20 năm. Đối với ông, một nhà báo cần có cả tâm và tầm, trong đó, tâm rất quan trọng. Một bài viết có tâm sẽ giúp động viên, khích lệ, lan tỏa những điều tốt đẹp.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: NVCC.

Vinh dự đi cùng với áp lực

Đầu tháng 3/2024, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) chính thức trở thành thành viên Hội đồng biên tập Tạp chí quốc tế về Khoa học và Công nghệ Hàng không Vũ trụ: Journal of Aerospace Science and Technology, Nhà xuất bản Elsevier.

Trò chuyện với PV Tri thức và Cuộc sống, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, đây là một trong những tạp chí quốc tế có trong danh mục SCI index (top 5%), rất có uy tín và chất lượng cao hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ Hàng không – Vũ trụ.

Hội đồng biên tập của tạp chí này gồm 10 nhà khoa học đến từ nhiều nước, trong đó, có các nước lớn như Mỹ, Anh, Nhật Bản… GS Nguyễn Đình Đức là người Việt Nam duy nhất tham gia Hội đồng.

“Điều đó thể hiện uy tín, vị thế của khoa học Việt Nam trên bản đồ thế giới. Đồng thời, cũng là niềm vinh dự của cá nhân, là sự động viên, cổ vũ dấn thân không chỉ đối với tôi, mà còn với các nhà khoa học trẻ, với các thế hệ học trò. Bởi tôi cũng đâu có nghĩ, đến một ngày mình sẽ có được vinh dự này”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm việc với sinh viên trong Nhóm nghiên cứu. Ảnh: NVCC.

Tuy nhiên, đi cùng với niềm vinh dự là những áp lực, thử thách. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, những công trình gửi tới tạp chí đều là những kết quả nghiên cứu mới nhất của một lĩnh vực rất khó, của các chuyên gia trên khắp thế giới về kỹ thuật hàng không, vũ trụ. Do đó, là thành viên của Hội đồng biên tập, có vai trò quyết định đối với việc xuất bản, vị trí của ông đòi hỏi phải có kiến thức hiểu biết sâu rộng và chuyên ngành chuyên sâu.

Bên cạnh đó, cần phải xây dựng được mạng lưới kết nối với các nhà khoa học, các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này của quốc tế. Bởi với yêu cầu tri thức hiểu biết sâu rộng như vậy, chỉ cá nhân nhà khoa học sẽ không thể đảm đương được mà cần sự phối hợp của các nhà khoa học khác. 

Ngoài ra, là người “cầm cân nảy mực” nên phải luôn đảm bảo sự khách quan, công bằng, minh bạch trong công tác xét duyệt, đánh giá.

“Vì vậy, đây là một công việc vừa tự hào, vinh dự, nhưng cũng đầy khó khăn và áp lực”, GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

Nhà khoa học có thẻ nhà báo

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay, công việc của một thành viên hội đồng biên tập tạp chí khoa học top 5% thế giới cũng có những điểm giống một nhà báo.

Trong đó, điểm chung quan trọng đầu tiên là yêu cầu về kiến thức tổng quan để xử lý thông tin, dữ liệu ban đầu – với các nhà báo là thông tin, còn với nhà khoa học là những đóng góp mới của công trình nghiên cứu. Để có được kiến thức này, GS Đức đã phải đọc rất nhiều, cả kinh nghiệm, kiến thức và trao đổi với các chuyên gia (giống với các nhà báo cũng phải tiếp nhận, xác thực thông tin từ nhiều nguồn, nhiều chiều).

GS Nguyễn Đình Đức báo cáo tại Phiên toàn thể Hội nghị quốc tế tại ĐH Yonsei, Hàn Quốc. Ảnh: NVCC.

Điểm thứ 2, là yêu cầu về tính chính xác, khách quan. Tạp chí khoa học, cũng là một hình thức báo chí trong việc công bố thông tin tới toàn xã hội. Hơn thế, là thông tin khoa học nên đòi hỏi về tính chính xác, trung thực, khách quan lại càng cao.

“Hiểu được những điều đó bởi bản thân tôi cũng là một nhà báo. Năm 2004, tôi được phân công làm Trưởng ban Biên tập Tạp chí Toán Lý của ĐH Quốc gia Hà Nội, đến 2005, tôi đã được cấp thẻ nhà báo. Bên cạnh công tác biên tập, tôi cũng viết nhiều bài về quản lý giáo dục, đào tạo, tuyển sinh, bảo đảm chất lượng, hoạt động khoa học công nghệ, xây dựng chính sách như một nhà báo.

Đến nay tôi đã có thâm niên 20 năm trong nghề báo. Điều này cũng giúp tôi không bỡ ngỡ khi tiếp nhận công việc của thành viên hội đồng khoa học một tạp chí khoa học chuyên ngành cấp quốc tế”, GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

Là một nhà khoa học, đồng thời cũng là một nhà báo, GS Nguyễn Đình Đức hiểu khá rõ vai trò của báo chí. Theo ông, báo chí có vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học.

Hiện nay, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, nhưng không thể thay thế được vai trò báo chí, bởi báo chí cung cấp những thông tin đã được kiểm chứng, khách quan và từ đó định hướng đúng đắn cho sự nhận thức và phát triển.

Trong lĩnh vực khoa học, nhờ có báo chí truyền đạt thông tin về kết quả nghiên cứu, trong đó có những thống kê, cập nhật, những kết quả mới, hướng nghiên cứu mới – nhờ đó cộng đồng khoa học Việt Nam mới nắm bắt được những lĩnh vực, hướng nghiên cứu mới để hội nhập với thế giới. Đồng thời cũng qua công bố khoa học mà thế giới biết đến Việt Nam, thể hiện được sự đóng góp của khoa học công nghệ Việt Nam với thế giới.

“Tôi cho rằng, vai trò của báo chí luôn rất quan trọng. Trước đây báo in, giờ chuyển dần sang báo điện tử, tuy hình thức khác nhau, nhưng vị thế, vai trò của báo chí và trách nhiệm của nhà báo không thay đổi”, GS Nguyễn Đình Đức khẳng định.

Là người có trải nghiệm làm công tác báo chí ở các môi trường trong nước và nước ngoài, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho hay, mỗi một công việc, môi trường đều có những đặc thù riêng. Tuy nhiên, sự nghiêm túc, trách nhiệm, chỉn chu chính xác, nghiêm cẩn, khách quan, trung thực… là những điểm ông nhận thấy rất rõ trong môi trường làm việc của báo chí. Đối với cá nhân ông, một nhà báo cần có cả tâm và tầm, trong đó, tâm rất quan trọng. Một bài viết có tâm sẽ giúp động viên, khích lệ, lan tỏa những điều tốt đẹp. Một bài viết có tầm sẽ định hướng cho sự phát triển.

Hạnh phúc nhất của người thầy, nhà khoa học

Là người thầy được nhiều thế hệ học trò yêu quý, là nhà khoa học đã gặt hái được nhiều thành tựu, là thành viên của Hội đồng biên tập nhiều tạp chí uy tín thế giới, nhưng GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức cho hay, ông vốn không bao giờ nghĩ rằng sẽ đi theo con đường trở thành một nhà giáo hay một nhà khoa học.

Có điều, từ khi còn trẻ, tấm gương của những nhà khoa học đã có ảnh hưởng rất lớn đối với ông. “Đến ngày hôm nay, tôi cảm ơn cuộc đời và số phận đã run rủi cho tôi trở thành một người thầy, một nhà khoa học. Tôi thấy may mắn và tự hào”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

GS Đức và các thế hệ học trò, hầu hết là tiến sĩ. Ảnh: NVCC.

Năm 1984, tốt nghiệp loại xuất sắc ngành Toán cơ tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội), GS Nguyễn Đình Đức được chuyển tiếp nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Mát-xcơ-va mang tên Lômônôxốp. Năm 1991, bảo vệ xong tiến sĩ toán lý, ông được nhà trường giữ lại làm thực tập sinh, rồi làm tiến sĩ khoa học.

Năm 1997, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học về kỹ thuật tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Với những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, năm 1999, khi mới 36 tuổi đời, ông đã được bầu là thành viên nước ngoài – Viện sỹ của Viện Hàn lâm khoa học tự nhiện Nga.

Về nước, GS Nguyễn Đình Đức được phân công về làm giảng viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ những bước đầu tiên trên con đường của nhà giáo, nhà khoa học, đối mặt và phải vượt qua biết bao khó khăn thử thách, nhưng cũng từ cơ duyên này, ông đã gắn bó với nghề giáo, với nghiên cứu khoa học. Dần dần, ông có được tình yêu, niềm đam mê và thành công với công việc của mình, trở thành người thầy, nhà khoa học lớn của đất nước.

Cho đến nay, GS Nguyễn Đình Đức đã đào tạo thành công nhiều học trò tài năng, kiên trì bền bỉ làm nên một trường phái khoa học về Vật liệu và kết cấu tiên tiến của Đại học Quốc gia Hà Nội, của Việt Nam vươn tầm quốc tế. Nhiều học trò của ông cũng đã trở thành giảng viên đại học của các trường đại học lớn trong cả nước.

Dưới sự dìu dắt của thầy, nhiều thế hệ học trò đã thành công, trở thành những nhà khoa học thành danh. Có những em đã giành những giải thưởng danh giá trong ngành Cơ học như giải thưởng Nguyễn Quang Đạo, được Forbes Việt Nam vinh danh. Họ đã tiếp nối sự nghiệp của thầy – truyền nhiệt huyết, thắp sáng ước mơ, lan tỏa tri thức, tình yêu và những điều tốt đẹp tới các thế hệ học trò mai sau.

“Chính học trò là động lực rất lớn cho tôi có được tình yêu với nghề. Mỗi học trò là một cuộc đời, một hoàn cảnh, một hoài bão. Khi các thế hệ học trò tiếp nối hoài bão và lý tưởng của tôi trong học thuật và trong sự nghiệp trồng người – với tôi, đó có thể coi là thành công nhất, tự hào nhất của cuộc đời”, GS Nguyễn Đình Đức tâm sự.

Khi được hỏi về những trăn trở, GS Nguyễn Đình Đức cho biết, trong những năm qua, chúng ta đã có rất nhiều những chính sách để hỗ trợ phát triển nhân tài, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh để khoa học công nghệ Việt Nam hội nhập với thế giới. Từ bài học của các nước đã đi trước như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản… cho thấy, để đất nước phát triển được thì quan trọng nhất ở hai yếu tố đột phá là chất lượng nguồn nhân lực và khoa học công nghệ.

“Khoa học công nghệ chính là chiếc đũa thần để đất nước phát triển nhanh chóng và nắm bắt được những cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và Việt Nam cũng không là ngoại lệ”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định.

Mong ước, trăn trở lớn nhất của GS Nguyễn Đình Đức là làm sao để giáo dục đào tạo Việt Nam ngày càng nâng cao được chất lượng đào tạo, tạo ra được những con người có tài, có đức, đặc biệt là có hoài bão, có tâm nguyện chấn hưng đất nước.

“Cùng với đó là khoa học công nghệ Việt Nam tiếp tục được đầu tư, quan tâm thỏa đáng với những chính sách quyết liệt, mạnh mẽ và kịp thời, để thế hệ trẻ của Việt Nam có thể đóng góp và mau chóng đưa đất nước ta phát triển vượt bậc, theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới”, GS Nguyễn Đình Đức bày tỏ.

GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức, sinh năm 1963, là một trong những nhà khoa học đầu ngành, có tầm ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực Cơ học và Vật liệu composite.

Đến nay, ông đã công bố gần 400 công trình khoa học, trong đó có hơn 200 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Theo kết quả xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trên thế giới của tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là 1 trong 2 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc trong nước liên tục lọt top 10.000 trong 5 năm liên tiếp từ năm 2019 đến nay, và lọt top 100 – đứng thứ 85 trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) năm 2023.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức còn là thành viên của Hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế có uy tín và đã được mời báo cáo tại phiên toàn thể của nhiều hội nghị quốc tế lớn trên thế giới.

Mai Loa

Giáo Sư Nguyễn Đình Đức: Đem Ngọn Lửa Nga Thắp Khát Vọng Khoa Học Việt

Là tiến sĩ khoa học trưởng thành trong cái nôi khoa học của thế giới, Đại học Tổng hợp Lomonosov. Ông đã có những đóng góp lớn cho nền khoa học, giáo dục nước nhà.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc Gia Hà Nội (ĐHQGHN), cựu lưu học sinh tại Liên Bang Nga – vừa là nhà khoa học, nhà giáo đã có nhiều cống hiến cho nền khoa học Việt Nam và thế giới.

Trải qua 40 năm gắn bó với nghề và Đại học Quốc Gia Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Đức  luôn cống hiến hết mình, không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Những thành tựu mà ông đạt được là minh chứng cho thành công về mối quan hệ hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Liên Bang Nga và Việt Nam. Đây cũng là ví dụ điển hình cho sự kế tục và phát huy truyền thống khoa học Xô viết và thế giới tại Việt Nam.

Nhân dịp chuyến thăm cấp nhà nước của Tổng thống Nga Vladimir Putin đến Việt Nam, phóng viên báo Dân trí đã có cuộc trò chuyện với Giáo sư Nguyễn Đình Đức để lắng nghe ông chia sẻ về những năm tháng học tập, nghiên cứu tại Liên Bang Nga và mang “ngọn lửa” tri thức Nga về Việt Nam.

Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức chia sẻ câu chuyện những năm tháng học tập tại Liên bang Nga và đóng góp khoa học cho Việt Nam (Video: Trần Vi).

Mối quan hệ tốt đẹp Việt Nam – Nga

Khoảng thời gian Giáo sư tham gia kỳ thi nghiên cứu sinh nước ngoài và có rất nhiều lựa chọn học tập tại các quốc gia. Tại sao ông chọn nước Nga làm nơi học tập và nghiên cứu?

– Tháng 10/1986, tôi sang làm nghiên cứu sinh của Đại học Tổng hợp Lomonosov, tôi là một trong những sinh viên Việt Nam đầu tiên được nghiên cứu sinh ở nước ngoài và kỳ thi khi đó chỉ có 2 người đỗ. Thời điểm đó tôi có rất là nhiều lựa chọn, thường người ta sẽ chọn nghiên cứu sinh tại Ba Lan hoặc Đức và ban đầu tôi đã chọn Đức.

Nhưng cuối cùng tôi xin thay đổi lại nguyện vọng trở lại Moskva và học tập nghiên cứu ở Đại học Tổng hợp Lomonosov vì đây là cái nôi của khoa học thế giới với nhiều Viện sĩ, giáo sư đã được nhận giải thưởng Nobel hay giải Fields (đây là những giải thưởng danh giá vinh danh các nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới).

Khi sang học tập tại Đại học Tổng hợp Lomonosov, tôi chọn vào khoa Toán Cơ – một trong những khoa nổi tiếng nhất của ngôi trường này. Cũng trong năm đó trường thành lập bộ môn hoàn toàn mới chính là Cơ học Vật liệu Composite. Tôi may mắn được làm nghiên cứu sinh bộ môn này theo hướng nghiên cứu hiện đại của Giáo sư Pobedria – Viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức trò chuyện với phóng viên Dân trí (Ảnh: Trần Vi).

Năm 27 tuổi tôi đã hoàn thành luận án tiến sĩ của mình, sau đó làm thực tập sinh thêm 3 năm tại trường. Đây là những tháng ngày đã trang bị cho tôi kiến thức, phương tiện, công cụ để đóng góp cho đất nước, vì khoa học công nghệ luôn là thế mạnh để phát triển của một quốc gia.

Ở Nga, giáo sư ưu tiên cho điều gì?

– Tôi có suy nghĩ làm thế nào để đưa những nghiên cứu của mình vào thực tiễn, ở Nga có nhiều nhà khoa học lỗi lạc, họ vừa là giáo sư, viện sĩ nổi tiếng có nhiều đóng góp vĩ đại trong Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Đây là những thần tượng của tôi và tôi quyết định phải hành động để những nghiên cứu khoa học không chỉ còn là nghiên cứu cơ bản mà nó còn phải gắn với thực tiễn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

May mắn thay, tôi được các giáo sư giới thiệu để làm luận án tiến sĩ khoa học về Kỹ thuật Công nghệ tại Phòng Thí nghiệm Vật liệu Composite, Viện Nghiên cứu Chế tạo Máy của Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô. Tôi tìm hiểu về các tiêu chuẩn bền của vật liệu composite và sử dụng phương pháp trung bình hóa của Viện sĩ Novicov – người được giải thưởng Fields về toán học.

Tôi đã đưa ra một tiêu chuẩn bền mới về vật liệu, đối với các nhà cơ học khác, tiêu chuẩn này thường được xây dựng bằng thực nghiệm, tôi cũng làm tương tự nhưng đưa ra một mô hình lý thuyết khi nào vật liệu an toàn, khi nào vật liệu bị phá hủy. Đấy là yếu tố giúp tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ này.

Phải nói rằng, một người nước ngoài vào trong viện nghiên cứu này để học tập là một điều rất khó. Nhưng may mắn thay mối quan hệ giữa Đại sứ Việt Nam và Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chế tạo Máy, viện sĩ Phralov rất tốt đẹp và ông cũng rất yêu quý Việt Nam, khi thấy tôi tốt nghiệp trường đại học hàng đầu của nước mình đã nhận ngay. Đây là một điều may mắn đối với tôi.

Mang “ngọn lửa” khoa học Nga về Việt Nam

– Là một tiến sĩ khoa học bảo vệ thành công ở một trong những cái nôi khoa học của thế giới, giáo sư đã được rất nhiều quốc gia mời về làm việc. Điều gì khiến ông trở lại Việt Nam để đóng góp cho Tổ quốc?

– Năm 1998 khi tôi bảo vệ xong luận án tiến sĩ khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô đã hợp tác với một trường đại học tổng hợp của Hoa Kỳ, tôi cùng với hai giáo sư người Nga sang làm việc và trao đổi ở bên đó. Thời điểm đấy, ban lãnh đạo của trường muốn mời tôi ở lại làm việc và vợ của hai giáo sư đều khuyên tôi nên ở Mỹ để phát triển sự nghiệp. Nhưng hai người thầy của tôi đã động viên tôi nên về Việt Nam và đây cũng là điều tôi mong muốn.

Giáo sư nói rằng, ngành khoa học vật liệu tại Việt Nam rất cần thiết và quan trọng để phát triển đất nước và ở đâu lĩnh vực này cũng sẽ là số một, kiến thức được trang bị dù ở đâu cũng như thế và ở Việt Nam sẽ phát huy rất tốt. Thú thật lúc đấy tôi cũng chưa hình dung ra rõ vấn đề này, nhưng đến bây giờ trải qua những năm tháng trải nghiệm mấy chục năm, tôi đã chiêm nghiệm lời của người thầy đã đúng.

Trở về Việt Nam, giáo sư đã có những đóng góp như thế nào cho sự phát triển của đất nước?

– Về nước, tôi tiếp tục nghiên cứu về vật liệu composite polymer 3 pha và vật liệu nanocomposite. Tôi cũng là một trong những nhà khoa học Việt Nam đầu tiên bắt tay vào nghiên cứu vật liệu và kết cấu FGM. Vật liệu chức năng FGM là vật liệu composite thế hệ mới, có cơ lý tính biến đổi, độ bền cơ học và bền nhiệt rất cao. Vì thế nó được sử dụng rộng rãi trong các kết cấu của nhà máy điện nguyên tử, hàng không vũ trụ, các chi tiết máy…

Tôi đã giải quyết thành công nhiều bài toán liên quan đến các ổn định tĩnh và động lực học cho các kết cấu tấm và vỏ bằng vật liệu biến đổi chức năng FGM, xây dựng được nhóm nghiên cứu chuyên sâu về vật liệu composite tại Đại học Quốc gia Hà Nội, có uy tín trong cộng đồng khoa học.

Trong suốt 40 năm gắn bó với nghề, tôi tập trung nghiên cứu về các vật liệu mới trên thế giới hiện nay như: vật liệu composite nano carbon siêu bền nhiệt, được ứng dụng trong an ninh quốc phòng; vật liệu composite polymer nhiều pha, ứng dụng trong công nghệ đóng tàu và các sản phẩm dân dụng; vật liệu và kết cấu tiên tiến thông minh có cơ lý tính biến đổi độ bền cao, chịu nhiệt độ cao, cách điện, cách nhiệt, ứng dụng trong công nghiệp, năng lượng hạt nhân; vật liệu chức năng và vật liệu nano có cơ lý tính biến đổi và áp điện, ứng dụng trong các linh kiện bán dẫn; vật liệu auxetic hấp thụ năng lượng và chống sóng nổ; vật liệu có hệ số poisson âm được ứng dụng trong y sinh, lưu trữ thông tin, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kỹ thuật.

Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đình Đức (chính giữa) cùng với các nhà khoa học nước ngoài (Ảnh: NVCC).

Đây là những hướng nghiên cứu khoa học về vật liệu tiên tiến và hiện đại trên thế giới hiện nay, có tính ưu việt hơn hẳn các vật liệu truyền thống, ứng dụng trong thực tiễn và tương lai, đáp ứng yêu cầu cao về mặt kỹ thuật của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, tôi đã công bố gần 400 bài báo và công trình khoa học; xuất bản 6 giáo trình và sách chuyên khảo bằng các thứ tiếng Việt, tiếng Nga và tiếng Anh. Đặc biệt, trong số các công trình đó có hơn 200 bài báo được đăng trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín của các nhà xuất bản lớn trên thế giới như Elsevier, Springer, SAGE, Taylor & Francis; ….

Từ những định hướng nghiên cứu khoa học và các kết quả đã công bố nêu trên đã giúp hình thành nên một Trường phái khoa học của Việt Nam về Vật liệu và Kết cấu tiên tiến ứng dụng trong kỹ thuật và công nghệ tại Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) do tôi đứng đầu. Trường phái này đã và đang tiếp tục có nhiều công bố độc lập đóng góp vào nền khoa học thế giới và được nhiều nhà khoa học quốc tế biết đến.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu về vật liệu composite tiên tiến của tôi và tập thể các nhà khoa học của Trường Đại học Công nghệ hợp tác với Bộ quốc phòng về hệ thống dẫn đường quán tính phục vụ các phương tiện chuyển động có điều khiển cũng được ứng dụng phục vụ thực tiễn.

Ngoài ra, việc nghiên cứu vật liệu composite nhiều pha với các hạt nano gia cường đã được ứng dụng thành công để chống thấm trong ngành công nghiệp đóng tàu bằng vật liệu composite, chế tạo các vật liệu chống chịu các điều kiện khắc nghiệt cũng như vật liệu làm tăng khả năng chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời. Nghiên cứu về composite polymer sợi thủy tinh gia cường các hạt nano của ông đã được cấp bằng sáng chế vào năm 2016.

Từ những thành tựu nghiên cứu khoa học và đóng góp cho nền khoa học thế giới, tên tuổi GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức của Việt Nam đã liên tiếp nhiều năm liền được xếp hạng, lọt top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology). Điều này đã khẳng định vị thế và uy tín của các nhà khoa học Việt Nam trên bản đồ khoa học quốc tế.

Người thắp lửa đam mê khoa học

 Với cương vị là một người thầy, Giáo sư đã có những sáng kiến như thế nào để đưa thế hệ trẻ nước nhà vươn tầm quốc tế?

– Trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước phát triển không thể thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ triết lý đó, sau nhiều năm kiên trì và bền bỉ, vượt qua bao nhiêu khó khăn, vất vả, tôi đã xây dựng thành công Nhóm nghiên cứu mạnh về vật liệu và kết cấu tiên tiến tại trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Sự hình thành và phát triển của mô hình nhóm nghiên cứu đã đào tạo ra nhiều tài năng trẻ cho đất nước và là bài học kinh nghiệm có thể nhân rộng ở các trường đại học khác của Việt Nam.

Tất cả các sinh viên trong nhóm nghiên cứu sau khi tốt nghiệp đại học, trở thành các kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ giỏi, đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín và đội ngũ những học trò của tôi lại tiếp tục lan tỏa tâm huyết và các hướng nghiên cứu, tâm nguyện của tôi đến những thế hệ học trò khác, đến mai sau.

Giáo sư là người có rất nhiều tình cảm với nhân dân, đất nước Nga. Khi về Việt Nam, ông đã có những hoạt động như thế nào để tăng cường sự hợp tác của các thế hệ của hai quốc gia?

– Những năm tháng ở nước Nga tôi không chỉ yêu thiên nhiên, văn hóa Nga mà còn là những tình cảm của nhân dân, các thầy giáo ở Nga dành cho những lưu học sinh Việt Nam tình cảm rất là đặc biệt. Họ chăm sóc các lưu học sinh Việt Nam không chỉ giúp đỡ về mặt chuyên môn, còn động viên cả về mặt tinh thần, giúp cho những lưu học sinh cảm thấy như mình đang ở quê nhà.

Tôi nghĩ một trong những nguyên nhân rất quan trọng để tôi có được điều này chính là nước Nga cũng đã trải qua chiến tranh và những người thầy của tôi cũng từng là lính, họ đã trải qua những hy sinh, mất mát và Việt Nam của chúng ta cũng trải qua những năm tháng như vậy cho nên giữa chúng tôi có sự đồng cảm rất sâu sắc. Đấy là điều rất là đặc biệt, có lẽ là rất khó ở một nước nào có thể có được.

Chính vì thế cho nên đến giờ phút này tôi vẫn nhớ như in những cái năm tháng tuổi trẻ và rất là tự hào. Khoảng thời gian tôi được sống và nghiên cứu ở Liên bang Nga đã cho tôi sự nhiệt huyết để giờ đây tôi cố gắng để đem kiến thức, năng lực để đóng góp cho đất nước. Thứ nhất là đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là đào tạo những thế hệ trẻ tiếp tục tiếp bước, trong đó cũng có không ít những học trò lại tiếp tục sang Nga học tập.

Để xây dựng và củng cố mối quan hệ tốt đẹp này, năm 2020 tôi đã thành lập Chi hội Hữu nghị Việt – Nga, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chi hội này có ý nghĩa rất là quan trọng là diễn đàn để tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng trí thức. Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội là nơi đầu tiên đào tạo tiếng Nga và hiện nay đã phát triển gần 70 năm. Chúng tôi đã đào tạo tiếng Nga và bây giờ vẫn tiếp tục có khoa tiếng Nga hay đưa hệ tiếng Nga vào chương trình trung học phổ thông chuyên ngoại ngữ.

Vì vậy, đào tạo các bạn thế hệ trẻ giữ gìn tiếng Nga giúp nâng tầm mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Bên cạnh đó, chi hội không chỉ là nơi giao lưu văn hóa, đây còn là nơi để phát triển mang lại sự gần gũi mật thiết giữa nhân dân hai nước bằng các mối hợp tác sâu rộng như đào tạo nguồn nhân lực ở các bậc đại học, sau đại học và hợp tác với các giáo sư tại nhiều trường đại học ở Liên Bang Nga.

– Giáo sư có chia sẻ cảm nhận về chuyến thăm cấp nhà nước của Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Việt Nam?

Tôi hi vọng qua chuyến thăm cấp nhà nước lần này của Tổng thống Putin tại Việt Nam, quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga sẽ đẩy lên một tầm cao mới. Cá nhân tôi đặc biệt hi vọng trong lĩnh vực hợp tác về giáo dục, khoa học, chuyến thăm của Tổng thống sẽ giúp cho Việt Nam tiếp tục có thêm nhà khoa học trẻ tài năng, được đào tạo tại nước Nga và hợp tác khoa học được nâng cao trên nhiều lĩnh vực mới.

Mong rằng, chính phủ của hai nước sẽ quan tâm mạnh hơn nữa, nhiều hơn nữa để có thể phát huy tốt nhất thế mạnh của các nhà khoa học và tiềm lực khoa học công nghệ của hai quốc gia, thúc đẩy hiệu quả khoa học để đóng góp xứng đáng vào lợi ích chung.

Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Theo Nam Đoàn, Báo Điện tử Dân Trí

Giáo sư Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ tiếp tục dẫn đầu lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ trong bảng xếp hạng năm 2024

Bốn nhà khoa học của ĐHQGHN tiếp tục có tên trong bảng xếp hạng của thế giới và dẫn đầu Việt Nam với 3 lĩnh vực trong năm 2024 là: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ; GS.TS Phạm Hùng Việt, PGS.TS Từ Bình Minh – lĩnh vực Khoa học Môi trường và PGS.TS Lê Hoàng Sơn – lĩnh vực Công nghệ thông tin.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục dẫn đầu lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ trong bảng xếp hạng năm 2024

Về phương pháp xếp hạng của Research.com, hệ thống đánh giá dựa trên chỉ số D-index của nhà khoa học – đây là chỉ số H-index và số bài báo theo lĩnh vực của các nhà khoa học trên hệ thống cơ sở dữ liệu của IEEE, ACL, Springer, AAAI, USENIX, Elsevier, ACM và LIPIcs. Trong đó, với đợt xếp hạng lần này, website Research.com đã xem xét dữ liệu của gần 200.000 nhà khoa học có năng suất công bố và trích dẫn hàng đầu thế giới.

Research.com phân chia thành 26 lĩnh vực để xếp hạng.

Trong 26 lĩnh vực này, năm nay, có 10 lĩnh vực của Việt Nam được xếp hạng, nhưng chỉ có 8 lĩnh vực, với 19 nhà khoa học là người Việt Nam đang công tác trong nước có tên trong bảng xếp hạng này.

Như vậy, nội lực với các lĩnh vực được xếp hạng có các nhà khoa học người Việt trong nước năm nay đã tăng lên 1 lĩnh vực và tăng thêm 5 nhà khoa học. Trong đó, lĩnh vực Toán học lần đầu tiên có mặt trong bảng xếp hạng này với 2 tên tuổi là GS. Ngô Việt Trung – Viện Toán học và GS Phan Quốc Khánh – ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh.

Điều thú vị là các nhà khoa học Việt Nam được xếp hạng đều từ các trường đại học và là trưởng các nhóm nghiên cứu mạnh.

Những con số thống kê trên phản ánh sự tiến bộ, nỗ lực và hội nhập không ngừng của các nhà khoa học Việt Nam. Những lĩnh vực mà Việt Nam được ghi nhận trên bản đồ khoa học của thế giới đã liên tục tăng trưởng theo từng năm.

Nguồn: https://research.com/

(Theo VNU-Media)

Các báo đưa tin:

Giáo sư Nguyễn Đình Đức làm Chủ tịch hội đồng Giáo sư cơ sở Trường ĐH Công nghệ

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội vừa được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư của nhà trường.

Chiều 13.5, Hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã họp phiên thứ nhất bầu các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng, cũng như thống nhất lịch làm việc của Hội đồng trong đợt xét Giáo sư, Phó giáo sư năm 2024.

Trước đó, vào ngày 10.5, Hiệu trưởng nhà trường đã ký quyết định số 872/QĐ-ĐHCN thành lập Hội đồng Giáo sư cơ sở năm 2024. Hội đồng gồm 9 thành viên.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư của nhà trường.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hiện là Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, Giám đốc Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến.

Từ năm 2019 đến nay, ông liên tiếp lọt vào top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới và top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới  trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) – đứng thứ 85 thế giới trong năm 2023.

Cũng từ nhiều năm nay, ông là người Việt Nam duy nhất đang làm việc trong nước được Research.com xếp hạng nhà khoa học xuất sắc của thế giới trong lĩnh vực Engineering and Technology. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cũng là một trong số ít nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng danh giá nhất – 100.000 nhà khoa học được xếp hạng ảnh hưởng nhất thế giới theo thành tựu trọn đời.

Theo quyết định thành lập Hội đồng Giáo sư cơ sở năm 2024 của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng nhà trường giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng. PGS.TS Trần Văn Quảng, Phó Trưởng phòng Đào tạo giữ chức Thư ký Hội đồng.

GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Phó Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư của nhà trường

Năm 2024, có 13 ứng viên đăng ký xét chức danh tại Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đó, có 2 ứng viên đăng ký xét chức danh giáo sư và 11 ứng viên đăng ký xét chức danh phó giáo sư.

Nguyễn Liên

Tự động hóa và Tin học đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

DVN -Kỹ sư Tự động hóa và Tin học luôn có thu nhập cao và không bao giờ bị thất nghiệp trong thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai.

Đặc trưng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 có ba trụ cột quan trọng nhất: Công nghệ thông tin – Tự động hóa – Trí tuệ nhân tạo. Vì vậy, khi mở ngành Tự động hóa và Tin học, Trường Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội đã góp phần cung cấp nguồn nhân lực có thể thích ứng và làm việc trong cả ba trụ cột này. Tự động hoá và Tin học (AAI) đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hôm nay, phóng viên có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Giám đốc chương trình Tự động hóa và Tin học (AAI), Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội để lắng nghe những chia sẻ hữu ích về ngành học và triển vọng đang triển khai đào tạo ngành này tại nhà trường.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức phát biểu tại Lễ trao bằng tốt nghiệp của Trường Quốc tế

Phóng viên: Với vai trò là là một nhà khoa học hàng đầu trên thế giới và khu vực trong lĩnh vực chuyên môn, và là Giám đốc chương trình Tự động hoá và Tin học, Giáo sư có thể chia sẻ về xu thế phát triển và cơ hội nghề nghiệp cho các bạn sinh viên theo học chương trình này?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Chương trình có sự gắn kết chặt chẽ giữa Tin học với Tự động hoá, là những lĩnh vực quan trọng nhất của Kỹ thuật hiện nay. Người học được cung cấp những kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin, điện, điện tử, tự động hoá và trí tuệ nhân tạo, đều là những lĩnh vực rất “hot” và có nhu cầu cao trong tuyển dụng hiện nay. Do đó, khi các bạn tốt nghiệp ngành này có thể làm việc trong môi trường toàn cầu, nhiều cơ hội để hội nhập và khởi nghiệp.

Kỹ sư Tự động hóa và tin học luôn có thu nhập cao và không bao giờ bị thất nghiệp trong thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai. Nhiều em ngay từ năm thứ 3 đã được doanh nghiệp đón mời về làm việc. Các em có thành tích học tập tốt, ngoại ngữ tốt có cơ hội làm việc ở các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước, có thể đăng ký xin học bổng để học tiếp bậc sau đại học ở các trường đại học hàng đầu trên thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức chụp ảnh lưu niệm cùng sinh viên khóa đầu tiên ngành Tự động hóa và Tin học

Phóng viên: Hiện nay, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đang đẩy mạnh nền kinh tế tri thức trong Cách mạng công nghiệp 4.0, do vậy nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật liên quan đến Cách mạng công nghiệp 4.0 rất cần và đang thiếu. Vậy ngành học đóng vai trò gì trong giai đoạn này và gắn như thế nào với cuộc cách mạng này, thưa Giáo sư?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Như tôi đã nhiều lần nhấn mạnh, đặc trưng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tựu trung lại có ba trụ cột quan trọng nhất: Công nghệ thông tin – Tự động hóa – Trí tuệ nhân tạo. Hiện nay ở Nhật Bản người ta đã nói đến xã hội 5.0, một xã hội thông minh trên nền tảng lực lượng sản xuất và những bước tiến nhanh và khổng lồ về kỹ thuật và công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0. Với tầm nhìn xa trông rộng khi mở ngành, chúng ta có may mắn là ngành Tự động hóa và Tin học của Trường Quốc tế cung cấp nguồn nhân lực có thể thích ứng và làm việc trong cả ba trụ cột này.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ra đời cùng với sự phát triển như vũ bão của các phương thức sản xuất và kinh doanh mới, luôn gắn với các hệ thống thông minh và tự động hoá dần dần sẽ có mặt trong tất cả những dây chuyền của các ngành kinh tế khác nhau, vì vậy, có thể khẳng định Tự động hoá và Tin học có vai trò then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phát triển lĩnh vực này, chúng ta không thể nắm bắt được những cơ hội và vượt qua những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để bứt phá và phát triển.

Đội ngũ giảng viên giảng dạy trong chương trình chụp ảnh lưu niệm trong chương trình gặp mặt sinh viên khóa đầu tiên.

Phóng viên: Xin thầy có thể chia sẻ về thế mạnh, điểm đặc sắc trong chương trình AAI của Trường Quốc tế, và môi trường học tập ở đây?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Tôi rất tự hào vì đây là chương trình đào tạo kỹ sư đầu tiên của Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chương trình được thiết kế hiện đại, tiên tiến, tương đồng với chương trình tiên tiến của nước ngoài.

Đặc sắc thứ hai của chương trình là người học sẽ được trang bị đầy đủ các kiến thức cơ bản nhất về tự động hóa, tin học, điện, điện tử, an toàn thông tin và trí tuệ nhân tạo.

Với nền tảng này, người học có thể làm việc trong các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp liên quan ở trong và ngoài nước, có thể tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn sâu để tham gia vào lĩnh vực thiết kế chip và vi mạch. Các em có tối thiểu 2 học kỳ gắn việc học tập với thực hành, thực tập, với doanh nghiệp.

Ba là chương trình có sự tham gia của các giáo sư, các nhà khoa học, đội ngũ giảng viên có uy tín, giàu kinh nghiệm và nhiệt huyết của Trường Quốc tế, trong toàn Đại học Quốc gia Hà Nội và thu hút cả các thầy cô giỏi ở các trường đại học lớn trên địa bàn Hà Nội cùng tham gia giảng dạy.

Bốn là chương trình có cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại của Trường Quốc tế và cơ sở vật chất hiện đại dùng chung của Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên cạnh đó, chương trình luôn có sự đồng hành của các doanh nghiệp.

Và cuối cùng là năng lực ngoại ngữ tốt, tiếng Anh sẽ trở thành ưu điểm vượt trội của các em khi tốt nghiệp chương trình này, các em sẽ trở thành các kỹ sư toàn cầu.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức chụp ảnh lưu niệm cùng các cán bộ, giảng viên Trường Quốc tế trong Lễ kỷ niệm 20 năm Ngày truyền thống

Phóng viên: Các ngành công nghệ kỹ thuật luôn cần phải được tiếp xúc, học hỏi, nghiên cứu, thực tập doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác đào tạo cá thể hoá theo các nhóm nghiên cứu. Vậy Trường Quốc tế đã quan tâm đến vấn đề này ra sao trong quá trình triển khai đào tạo?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Ngay từ năm thứ nhất, các em sinh viên của chương trình sẽ được tham gia các nhóm nghiên cứu, tiếp xúc với các nhà khoa học đầu ngành, với doanh nghiệp. Từ đó phát hiện đam mê và năng lực của từng cá nhân để dìu dắt. Khi vào học, nhà trường và các thầy cô sẽ không để tài năng nào bị bỏ sót, sáng kiến nào bị lãng quên.

Nhà trường và các doanh nghiệp cũng đặc biệt quan tâm cấp học bổng cho các em có thành tích học tập xuất sắc.

Trong quá trình học tập, các em được các thầy cô dìu dắt, được nhà trường đầu tư để tham gia nghiên cứu khoa học, tham gia vào các đề tài, dự án của các giảng viên ở trong và ngoài trường, được tham gia các cuộc thi quốc gia, quốc tế.

Nhà trường, đặc biệt là Đại học Quốc gia Hà Nội có hợp tác với nhiều doanh nghiệp lớn như LG, Sumsung, Siemens, Viettel,…. Những hợp tác này cho các em rất nhiều cơ hội thực tập và việc làm.

Sinh viên ngành Tự động hóa và Tin học cùng làm nghiên cứu với các thầy, cô

Phóng viên: Giáo sư có nhắn nhủ gì đến các sĩ tử vào đại học năm 2024 đặc biệt những bạn quan tâm đến các ngành công nghệ kỹ thuật như AAI?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Ngành tự động hóa và tin học của Trường Quốc tế hội tụ đầy đủ những nhân tố “hot và hiện đại” – và đang là ngành thời thượng, là điểm đến và là cơ hội, tương lai cho các bạn trẻ. Tôi hy vọng và tin tưởng sẽ được đón nhiều học sinh ưu tú vào học ngành này tại Trường Quốc tế.

Các em hãy mạnh dạn và dấn thân, theo đuổi đam mê và hoài bão. Thành công và hạnh phúc chỉ mỉm cười với những ai kiên trì và hăng say lao động.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Đình Đức.

Nguyễn Minh

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Vì sao phải xếp hạng đại học?

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội – ĐHQGHN), nguyên Trưởng ban Đào tạo của ĐHQGHN đã đưa ra một số lý do mà các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) cần thiết phải tham gia xếp hạng đại học. GS Đức nhấn mạnh là “phải” thay vì “nên” tham gia xếp hạng đại học.

Xếp hạng đại học là tất yếu của sự phát triển

Theo GS Nguyễn Đình Đức, xếp hạng đại học là một sân chơi giúp các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) có khả năng đối sánh với các trường khác ở quốc tế, biết mình mạnh gì, yếu gì, đang ở đâu so với các trường đại học khác trong khu vực và trên thế giới để cải tiến chất lượng, nâng cao vị thế. Vì vậy, chúng ta rất nên tham dự cuộc chơi này vì nó mang lại lợi ích cho tất cả (nhà trường, người học và xã hội).

Mặt khác, “xếp hạng đại học còn là thực hiện Luật” – GS Đức nhấn mạnh. Luật Luật số: 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã sửa đổi Điều 9 như sau: “1. Xếp hạng cơ sở giáo dục đại học nhằm đánh giá uy tín, chất lượng, hiệu quả hoạt động theo tiêu chí nhất định, đáp ứng nhu cầu thông tin cho cá nhân, tổ chức có liên quan. 2. Cơ sở giáo dục đại học chủ động lựa chọn, tham gia các bảng xếp hạng có uy tín trong nước, quốc tế. 3. Pháp nhân phi thương mại Việt Nam được thực hiện xếp hạng cơ sở giáo dục đại học; phải bảo đảm trung thực, khách quan, minh bạch, có trách nhiệm công khai, giải trình về phương pháp, tiêu chí và kết quả xếp hạng.”. Như vậy, “các CSGDĐH Việt Nam phải lựa chọn để tham gia xếp hạng còn là để thực hiện Luật Giáo dục đại học” – GS Đức nhấn mạnh.

GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ, với những lần đi công tác nước ngoài, gặp gỡ và trao đổi với đối tác nước ngoài, khi giới thiệu là cán bộ của ĐHQGHN – vị thế về xếp hạng của ĐHQGHN trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã được đối tác coi trọng, và đây là một lợi thế. Rõ ràng, có ví trí cao trong bảng xếp hạng đại học của thế giới sẽ là một lợi thế trong quan hệ hợp tác nói chung và hợp tác quốc tế nói riêng.

Trong xếp hạng đại học, GS Đức khẳng định, công bố quốc tế là một chỉ số rất quan trọng trong tất cả các bảng xếp hạng. Bởi đại học là nơi sáng tạo tri thức, đỉnh cao của tri thức. Các nghiên cứu, công bố kết quả đỉnh cao là chỉ số được đánh giá rất cao, thể hiện năng lực dẫn dắt, đổi mới sáng tạo của các CSGDĐH. Cũng chính vì quan trọng như vậy, nên các cơ quan báo chí đã phản ánh một số hiện tượng một số trường đại học mua bài báo, khai man, tạo nên thứ hạng xếp hạng không đúng với thực lực – đây là hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh”. GS Nguyễn Đình Đức cho rằng, một số hiện tượng tiêu cực trong việc kê khai, chạy theo thành tích ảo trong xếp hạng đại học không có nghĩa là chúng ta tẩy chay xếp hạng đại học, mà càng đòi hỏi các tổ chức xếp hạng phải không ngừng cải tiến trong cách đo lường và đánh giá sao cho xếp hạng ngày càng chính xác hơn nữa, không thể/không có cơ hội để khai man trong thời gian tới.

Sau nhiều năm định hướng và phát triển, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã có thêm nhiều trường đại học lọt trong top các trường đại học hàng đầu của thế giới. Rất đáng để họ tự hào và phấn đấu. Điều này một lần nữa khẳng định vai trò của xếp hạng đại học không chỉ quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam mà còn quan trọng cả đối với nhưng nước phát triển trên thế giới.

Một số hiện tượng tiêu cực bên cạnh xu hướng tích cực

Trang chủ của bảng xếp hạng đại học THE.

Năm 2018, lần đầu tiên 2 đại học quốc gia (ĐHQG) của Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng 1000 thế giới (theo bảng xếp hạng QS – QS World University Rankings). Sau đó, một số CSGDĐH lớn, trong đó có 2 ĐHQG đã tiếp tục lọt vào các bảng xếp hạng khó hơn như THE (Times Higher Education World University Rankings) và bảng xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải. Các năm sau, giáo dục đại học của Việt Nam ngoài việc xếp hạng tổng thể còn ghi nhận xếp hạng các lĩnh vực. Năm 2023, 8/10 lĩnh vực tham gia xếp hạng của ĐHQGHN lọt vào top 1000 trong bảng xếp hạng THE. Lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ của ĐHQGHN đã lọt top 386 thế giới theo bảng xếp hạng QS 2022. Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN đã đề ra mục tiêu một số lĩnh vực lọt top xếp hạng 200 thế giới vào năm 2045.

Có thể khẳng định, tất cả thủ đô của các nước phát triển đều có những đại học hàng đầu. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/05/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra mục tiêu đến năm 2030, Thủ đô Hà Nội phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực; đến 2045 có trình độ phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng. Sẽ thật khó đạt được nếu Thủ đô Hà Nội không có đại học nào lọt top các đại học hàng đầu thế giới.

GS Nguyễn Đình Đức cho biết, mới đây, có bài báo viết về hiện tượng một số CSGDĐH lớn từ bỏ sân chơi xếp hạng đại học; trong bài, tác giả dùng từ “nhiều” là chưa chính xác. Bản chất xếp hạng đại học là một dạng “kiểm chuẩn” (benchmark) để đối sánh, đảm bảo chất lượng. Có hàng nghìn CSGDĐH đang tham gia không nói đến, mà hễ 1, 2 CSGDĐH không tham gia (vì họ đã từng xếp hạng cao và uy tín) thì lại xoáy vào. Điều này đang tạo nên sự hiểu lầm và bàn lùi trong giáo dục đại học. Điều đáng buồn là nhiều CSGDĐH Việt Nam chưa dám đặt ra mục tiêu tham gia xếp hạng. Việc phản đối và không ủng hộ việc a dua, khai man và bằng mọi cách để “mua” xếp hạng là cần thiết, nhưng nếu không xếp hạng, không theo luật chơi của quốc tế, vào sân chơi của thế giới, giáo dục sẽ khó hội nhập, thậm chí mất phương hướng, vì không có đối sánh sẽ không biết mình đang ở đâu, đang đi đâu, về đâu.

Tóm lại, “các CSGDĐH Việt Nam phải lựa chọn tham gia các bảng xếp hạng đại học, đây là việc làm hết sức cần thiết để hội nhập quốc tế và để thực hiện Luật Giáo dục đại học” – GS Đức nhấn mạnh.

Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy tiếp Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức cùng đoàn công tác Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Yên Bái mong muốn có được cơ hội trao đổi, hợp tác với Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt trong đó có Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức- người con quê hương, để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, 1 trong 3 khâu đột phá chiến lược trong quy hoạch phát triển của tỉnh Yên Bái và được xác định rõ trong Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025.

Tại buổi tiếp, GS,TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã chia sẻ với các đồng chí lãnh đạo tỉnh Yên Bái một số thông tin về nhà trường. Theo đó, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia là một trong những cơ sở đào tạo, nghiên cứu về công nghệ, kỹ thuật hàng đầu cả nước và đang từng bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Mục tiêu phát triển của Trường là đào tạo cho thị trường một nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài. 

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức mong muốn qua chuyến thăm và làm việc tại Yên Bái, với sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, đặc biệt là đồng chí Đỗ Đức Duy – Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái cũng đã từng công tác trong ngành GD – ĐT, hai bên sẽ mở ra nhiều cơ hội trao đổi, hợp tác. Qua đó đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ… phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Yên Bái. 

Phát biểu tại buổi tiếp, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy bày tỏ vui mừng được đón tiếp đoàn công tác, đặc biệt là GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – người con của quê hương Yên Bái, nguyên là cựu học sinh lớp chuyên Toán khóa 1 của tỉnh Hoàng Liên Sơn.

Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: Quan điểm, định hướng của tỉnh Yên Bái trong nhiệm kỳ xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là 1 trong 3 khâu đột phá chiến lược trong quy hoạch phát triển của tỉnh và được xác định rõ trong  Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 và tỉnh đã có nhiều giải pháp để đẩy mạnh chất lượng nguồn nhân lực, ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề, cơ chế chính sách về nâng cao chất lượng GD-ĐT, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực… 

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy cũng chia sẻ về một số kết quả nổi bật trong lĩnh vực GD-ĐT của tỉnh Yên Bái với đoàn công tác, đặc biệt là chất lượng giáo dục mũi nhọn. Qua kết quả Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia, Yên Bái đứng thứ 5/14 tỉnh vùng trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ 27/63 tỉnh, thành. Tỉnh cũng đã ban hành riêng Đề án về phát triển Trường THPT Chuyên Nguyễn Tất Thành, đồng thời, nỗ lực mời gọi, thu hút nhân tài về các ngành, lĩnh vực của tỉnh với những cơ chế chính sách đãi ngộ riêng.

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy trân trọng cảm ơn Đoàn công tác của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là cá nhân GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với tỉnh Yên Bái. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy khẳng định những mục tiêu mà nhà trường hướng đến trong chuyến công tác lần này hoàn toàn đúng và trúng với những định hướng phát triển của tỉnh. Trên cơ sở đó, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đề nghị trong thời gian tới, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội và tỉnh Yên Bái tiếp tục có những trao đổi cụ thể hơn, tiến tới ký kết những nội dung hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.

Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy tặng Đoàn công tác của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia cuốn Sách ảnh Đất và Người Yên Bái.

Được biết, Giáo sư Nguyễn Đình Đức là người con của quê hương Yên Bái. Từ năm 2019 đến nay, ông liên tiếp lọt vào top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới và top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ; đứng thứ 85 thế giới trong năm 2023. GS,TSKH Nguyễn Đình Đức vừa là nhà khoa học, vừa là nhà giáo đã có nhiều cống hiến cho nền khoa học trong nước và thế giới. Đặc biệt, ông còn được biết đến với vai trò là người thầy mở đường và dẫn dắt các thế hệ học trò hội nhập vào nền khoa học thế giới.

 Ông là nhà khoa học có tầm ảnh hưởng quốc tế. Theo kết quả xếp hạng các nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trên thế giới của tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là 1 trong 2 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc trong nước liên tục lọt top 10.000 trong 5 năm liên tiếp từ năm 2019 đến nay, và lọt top 100 – đứng thứ 85 trong danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) năm 2023.

GS Nguyễn Đình Đức còn thành viên của Hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế có uy tín và đã được mời báo cáo tại phiên toàn thể của nhiều hội nghị quốc tế lớn trên thế giới.

Từ năm 2019 đến nay,GS Nguyễn Đình Đức liên tiếp lọt vào top 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới và top 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới  trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ (Engineering and Technology) – đứng thứ 85 thế giới trong năm 2023.

Cũng từ nhiều năm nay,  GS Nguyễn Đình Đức là người Việt Nam duy nhất đang làm việc trong nước được Research.com xếp hạng nhà khoa học xuất sắc của thế giới trong lĩnh vực Engineering and Technology.

GS Nguyễn Đình Đức cũng là một trong số ít nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng danh giá nhất – 100.000 nhà khoa học được xếp hạng ảnh hưởng nhất thế giới theo thành tựu trọn đời.

Thanh Chi – Hoài Văn

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trường Đại học Công nghệ sẵn sàng cho đào tạo nhân lực lĩnh vực bán dẫn và vi mạch

Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET) là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực Công nghệ và Kỹ thuật. Trải qua hơn 20 năm phát triển, Trường ĐHCN đã xây dựng và phát triển được nhiều chương trình đào tạo tiên tiến, đặc biệt là các chương trình cung cấp kiến thức nền tảng quan trọng cho đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực bán dẫn và vi mạch. Hiện tại Nhà trường là một trong số ít các trường đại học có đủ chương trình đào tạo định hướng bán dẫn và vi mạch từ bậc đại học, thạc sĩ cho đến tiến sĩ.

Ngay từ khi thành lập, với sứ mệnh hàng đầu là “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các lĩnh vực khoa học – công nghệ tiên tiến”, Trường ĐHCN đã sớm triển khai các chương trình đào tạo và nghiên cứu tập trung vào các lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với lĩnh vực bán dẫn và vi mạch. Các chương trình đào tạo này có thể kể đến như: Công nghệ Kỹ thuật Điện tử – Viễn thông, Kỹ thuật máy tính (thuộc khoa Điện tử – Viễn thông), Vật lý kỹ thuật, Kỹ thuật năng lượng (thuộc khoa Vật lý kỹ thuật & Công nghệ Nano), Cơ kỹ thuật, Công nghệ Kỹ thuật Cơ điện tử (thuộc khoa Cơ học kỹ thuật & Tự động hóa) v.v. Tham gia giảng dạy các học phần là các giảng viên, chuyên gia và các nhà khoa học uy tín có kinh nghiệm chuyên môn sâu trong lĩnh vực bán dẫn của Nhà trường.

Các chương trình đào tạo này đã được Nhà trường đưa vào giảng dạy trong nhiều năm qua, góp phần đào tạo hàng nghìn nhân lực chất lượng cao có trình độ từ cử nhân, kỹ sư cho tới thạc sĩ, tiến sĩ với trình độ và kỹ năng chuyên môn tốt, tham gia tích cực và hiệu quả vào các công đoạn khác nhau của nền công nghiệp bán dẫn và vi mạch. Trường ĐHCN cũng thường xuyên gửi sinh viên tham gia các chương trình giao lưu trao đổi đào tạo, nghiên cứu, gần nhất là chương trình trao đổi giảng viên và sinh viên do Hiệp hội bán dẫn Đông Nam Á (SEMI SEA) tổ chức tại Malaysia, nhằm khẳng định vị thế cũng như tinh thần hội nhập quốc tế của Nhà trường. 

Các sản phẩm thiết kế và chế tạo dựa trên công nghệ bán dẫn phát được phát triển bởi Thầy Cô và sinh viên của các nhóm nghiên cứu tại Trường ĐHCN

Bên cạnh các chương trình đào tạo, Trường ĐHCN trong nhiều năm qua đã ưu tiên đầu tư phát triển mạnh các nhóm nghiên cứu chuyên sâu và các phòng thí nghiệm hiện đại gắn với lĩnh vực nghiên cứu về bán dẫn và vi mạch. Hiện tại, trường có 04 nhóm nghiên cứu mạnh và 04 phòng thí nghiệm đang triển khai nghiên cứu về Thiết kế, chế tạo linh kiện bán dẫn, Hệ thống cơ điện tử tiên tiến, Vật liệu và linh kiện Micro-nano v.v

Các lĩnh vực nghiên cứu về chip/bán của nhà trường có thế mạnh có thể kể đến như: Thiết kế vi mạch tích hợp VLSI, thiết kế chip & hệ thống nhúng, thiết kế chế tạo linh kiện vi cơ điện tử và vi hệ thống, vật liệu và linh kiện nano, công nghệ quang tử, tự động hóa v.v. Các lĩnh vực nghiên cứu này bước đầu đã đạt được các kết quả quan trọng với nhiều sản phẩm được thiết kế và chế tạo dựa trên công nghệ bán dẫn và hàng trăm công trình công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín hàng năm.

Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHCN và Tập đoàn Samsung Electronics trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ Thạc sĩ định hướng bán dẫn và vi mạch

Hợp tác giữa Nhà trường và Doanh nghiệp là một trong những chiến lược quan trọng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp cận chuẩn quốc tế, nhất là đối với ngành công nghiệp công nghệ cao như bán dẫn và vi mạch. Xác định được tầm quan trọng đó, trường ĐHCN thời gian vừa qua, đã hợp tác với các tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn và vi mạch như Samsung, Cadence, Qorvo, Synopsys, …Đặc biệt trong đó là thỏa thuận hợp tác ký kết giữa Trường ĐHCN và Tập đoàn Samsung Electronics (Hàn Quốc) nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo nhân tài trình độ Thạc sĩ định hướng bán dẫn và vi mạch. Sự kiện này có ý nghĩa lớn trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp bán dẫn. Hợp tác với tập đoàn công nghệ hàng đầu, với các “ông lớn” như Samsung mang lại cơ hội và giá trị to lớn trong việc triển khai đào tạo, nghiên cứu tiếp cận chuẩn quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng nhân lực toàn cầu, đáp ứng yêu cầu của đất nước và thế giới về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực bán dẫn và vi mạch.

        Sinh viên trường ĐHCN đoạt huy chương bạc tại cuộc thi lập trình viên quốc tế ICPC 2024

Như vậy, có thể thấy trường ĐHCN là một trong những trường đại học hàng đầu Việt Nam, với tầm nhìn xa trông rộng, từ nhiều năm nay đã và đang triển khai toàn diện: từ chương trình đào tạo, xây dựng các phòng thí nghiệm tiên tiến hiện đại, các nhóm nghiên cứu mạnh, và hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hàng đầu thế giới để triển khai đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao trong lĩnh vực vi mạch và bán dẫn. Bên cạnh đó, phải kể đến thế mạnh lớn nhất của nhà trường là đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản từ nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới, và đặc biệt là chất lượng sinh viên đầu vào – trường ĐHCN là một trong những trường đại học có điểm tuyển sinh đầu vào cao nhất cả nước trong hầu hết tất cả các ngành, lĩnh vực đang đào tạo.      

Đó chính là những yếu tố then chốt bảo đảm chất lượng và tạo nên những cú huých tăng trưởng vượt bậc của nhà trường. Năm 2022, lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ của ĐHQGHN “đi sau nhưng về trước” đã vươn lên và xếp hạng top 386 trong bảng xếp hạng QS của thế giới. Sau hơn 10 năm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, trong năm 2023, quy mô tuyển sinh các ngành thuộc lĩnh vực Kỹ thuật công nghệ đã chiếm 27% trong tổng quy mô tuyển sinh của ĐHQGHN. Lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ, cùng với Y – Dược sẽ là những trụ cột, những đôi cánh để ĐHQGHN phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Lãnh đạo ĐHQGHN, ĐH Bách Khoa, ĐH Đà Nẵng và lãnh đạo trường ĐHCN tại Hội thảo Phát triển nguồn nhân lực CLC ngành công nghiệp chip bán dẫn tại Đà Nẵng, tháng 10/2023

Đứng trước bối cảnh tự chủ đại học và cơ hội hội nhập chưa từng có: từ năm 2023 đến nay, Việt Nam đã mới trở thành đối tác chiến lược toàn diện với những quốc gia phát triển, với các cường quốc như Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023) và Australia (2024), cũng như chiến lược phát triển mới của ĐHQGHN và của Quốc gia trong giai đoạn tới, nhà trường đã xác định chiến lược đến năm 2035 sẽ trở thành một trong những trường đại học Công nghệ Kỹ thuật hàng đầu Châu Á và khu vực, với tầm nhìn đến năm 2045 có một số lĩnh vực lọt vào top xếp hạng ranking 200 của thế giới.           

               Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn và lãnh đạo nhà trường tại Hội nghị tại Đà Nẵng, tháng 10/2023

Với Truyền thống, sứ mạng và tầm nhìn tương lai, sự quyết tâm và đồng lòng mạnh mẽ của tập thể cán bộ giảng viên và sinh viên của nhà trường, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các bộ ngành và ĐHQGHN tới lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ, trong đó có lĩnh vực bán dẫn và vi mạch, sẽ là tiền đề để trường ĐHCN tiếp tục tăng cường mở rộng quy mô đào tạo, định hướng nghiên cứu chuyên sâu, đồng thời kết hợp với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của xã hội; góp phần vào sự thành công của ngành công nghiệp bán dẫn, tạo ra thế hệ tài năng mới của Việt Nam trong tương lai; xứng đáng là cơ sở đào tạo hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật.

                                                  GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN

Giáo sư quê Hải Dương 3 năm liền lọt top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới

Đây là năm thứ 3 liên tiếp, Giáo sư Nguyễn Đình Đức, quê ở phường An Phụ, thị xã Kinh Môn (Hải Dương) lọt vào bảng xếp hạng 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.

Việt Nam có 5 người lọt vào bảng xếp hạng top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới do Tạp chí PLoS Biology của Mỹ vừa công bố, trong đó có Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức (sinh năm 1963, quê ở phường An Phụ, Kinh Môn), Trưởng ban Đào tạo đại học và sau đại học Đại học Quốc gia Hà Nội.

Giáo sư Đức đứng đầu trong số 5 nhà khoa học lọt vào top 10.000 với xếp hạng 5.949 thế giới và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering (kỹ thuật, ngành kỹ sư). Đây là năm thứ ba liên tiếp, giáo sư lọt vào top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.   

Bảng xếp hạng này do nhóm nhà khoa học uy tín hàng đầu của Đại học Stanford (Mỹ) nghiên cứu và công bố trên tạp chí PLoS Biology. Nhóm nhà khoa học dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ năm 1960 đến tháng 8.2021 để lọc từ hơn 7 triệu nhà khoa học chọn vào top 100.000 người có ảnh hưởng nhất và sau đó chọn ra 10.000 nhà khoa học hàng đầu. Các nhà khoa học trên thế giới được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học, 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Theo Báo Hải Dương (2021)

Professor Nguyen Dinh Duc – the aspiring educator who led the Vietnamese emerging generation to the global scientific world

Professor Nguyen Dinh Duc, University of Engineering and Technology, Vietnam National University (VNU), is well-known as a scientist and an educator who has contributed to the field of science nationally domestically and internationally. He is especially known for his role as an educator, introducing who introduce the international world of science to different generations of Vietnamese students.

Reaching a higher level of Global Integration

Professor Nguyen Dinh Duc is a scientist who has had significant influence internationally. According to the worldwide ranking of the most influential scientists published by the PloS Biology journal, Prof. Nguyen Dinh Duc was among the 2nd Vietnamese scientists working in Vietnam to make the top 10,000 for five consecutive years since 2019, and the top 100 – at 85th in the rankings of leading scientists globally in the field of Engineering and Technology in 2023.

Prof. Nguyen Dinh Duc is a member of the Editorial Council of 10 prestigious ISI international journals. He was also invited to present reports at plenary sessions of numerous international conventions.

Catching the Novel Trends in Research

Throughout four decades of his profession, Professor Nguyen Dinh Duc has conducted extensive research on novel materials, including thermally durable carbon nanocomposite materials, with applications in the field of national security and defense; multi-phase polymer composite materials for shipbuilding and civil products industries; advanced smart materials and structures with variable mechanical properties, high durability, heat resistance, which have seen applications in industry and nuclear energy; functional graded materials and nanomaterials with variable mechanical and piezoelectric properties, applied in semiconductor devices; auxetic energy-absorbing and blast-waves-resisting materials; Materials with negative Poisson coefficients used in biomedicine, information storage, etc. These are the leading research fields on advanced materials in the world today, which promise highly superior properties over traditional materials, as well as practical and future applications to meet the high technical requirements of the 4.0 industrial revolution.

Based on his research results, Professor Nguyen Dinh Duc has published over 350 articles, six curriculums, and monographs in Vietnamese, Russian, and English. Furthermore, among his scientific works, over 200 articles were published by highly regarded ISI journals of reputable publishers such as Elsevier, Springer, SAGE, Taylor & Francis, etc.

The research results and directions made by Professor Nguyen Dinh Duc gave birth to a scientific field of Advanced Materials and Structures, and their applications in Engineering and Technology in Vietnam, led by himself. The field has made many independent publications, which have attracted the attention of researchers worldwide, contributing to global scientific advancement.

Practical Contributions to the Nation

Aside from his impact on the global scientific community, the research on advanced composite materials made by Prof. Nguyen Dinh Duc has had practical applications domestically, namely the research on the use of the Inertial Navigation System in locating and navigating controlled vehicles, which he conducted along with the scientists from the University of Engineering and Technology, and the Department of National Defense. For the results and applications of this research, he was awarded the 3rd prize in the Vietnam Talent Award for highly application-oriented products. Regarding civil applications, his work on multi-phase composite materials with reinforced nanoparticles was a great success in the shipbuilding industry, enhancing waterproofing capabilities. It has also significantly contributed to creating durable materials against harsh conditions and materials that strengthen energy conversion in solar panels.

Establishing the model of highly skilled research groups, mentoring generations of talents for the nation

With extensive international integration, our nation’s development depends significantly on high-quality human resources. Following that philosophy, Professor Nguyen Dinh Duc has overcome countless difficulties during his years of research and education to establish a skilled research group specialized in advanced materials and structures at the University of Engineering and Technology – VNU Hanoi. The founding and development of this research model is a lesson worthy of replication across universities in Vietnam.

Professor Nguyen Dinh Duc’s research group is a superb model that closely incorporates the university’s education and research processes. The outstanding benefit of the research model is the creation of an environment in which the educational process is integrated with scientific research and practice, and the knowledge and findings made by the groups, after publication, are introduced and applied in the university and post-university programs. This model was also highly efficient, producing quality results for minimal financial investments.

Students from these research groups have become engineers, masters, and doctors, and their research results have been published by prestigious international ISI magazines. Two of his students were awarded the esteemed Nguyen Van Dao Award – named after the first director of the Vietnam National University. Another student of his was proudly honored by Forbes Vietnam. His students have continued to spread the professor’s passion and legacy – his research directions, to the later generations.

With the research group model, Professor Nguyen Dinh Duc has trained countless young, talented doctors; attracted and assembled teams; founded the Lab of Advanced Materials and Structures to produce mechanical engineers in this field; established the Faculty of Civil Engineering, training engineers, masters, and doctors; gathering outstanding scientists from major domestic and international universities to work and exchange.

As of today, the research group led by Professor Nguyen Dinh Dung has established and continues to maintain equal and cooperative relationships with highly-regarded laboratories and researchers in leading universities in the United States, South Korea, the United Kingdoms, Australia, China, India, …, namely the Tokyo University of Technology, the University of Tokyo (Japan), the University of Melbourne (Australia), the University of Birmingham (UK), Yonsei University and Sejong University (South Korea), Wuhan University (China), etc. The group has also attracted many young doctors from major domestic universities such as the University of Engineering and Technology, VNU University of Science, the Vietnam-Japan University, the Military Technical Academy, Hanoi University of Civil Engineering, the University of Transport and Communications, etc., to participate in collaborative research and training.

Introducing New programs to Serve the Industrialization and Modernization Process and International Integration

With a broad vision and a firm grasp of the trends, with enthusiastic agreement and support from the university’s leaders and the leaders of Vietnam National University, Professor Nguyen Dinh Duc opened the Doctoral Program in Mechanical Engineering (2013), established laboratories and introduced Program in Advanced Materials and Structures for mechanical engineers (2015), launched the Civil Engineering program (2017), and established the Department of Civil Engineering in 2018. In 2022, this Department was promoted to the Faculty of Civil Engineering at the University of Engineering and Technology with a scale of nearly 600 students per year. Also, in 2022, Professor Nguyen Dinh Duc developed Master’s and Doctoral Programs in Civil Engineering, conforming to the full range of training levels according to the national standards for this field. He had opened bachelor program Industrial and Graphic Design in 2024 also.

Two cohorts of civil engineers from the University of Engineering and Technology have graduated with a rate of 100% of the students employed immediately after graduation. In particular, one student was entrusted with technical responsibilities at a large international corporation. In 2022, 2023 – the student teams from the Faculty of Transportation Engineering Technology participated in the Forum 8 competition in Japan and won an international award for design.

Professor Nguyen Dinh Duc also proposed and founded the Master’s and Engineer programs in Civil Engineering at Vietnam-Japan University and the engineer’s program in Automation and Informatics at the International University, VNU.

The mentioned fields are all significant, with the aim of producing high quality human resources to serve the national development process.

Contributing Innovative Ideas and Strategic Decisions to Enhance the Position and Ranking of Vietnam National University

Professor Nguyen Dinh Duc has held several important positions in Vietnam National University, Hanoi and the University of Engineering and Technology, such as the Director of the R&D Department (2005-2008), the Director of Academic Affairs Department of VNU Hanoi (2012-2023), and Vice President of the University of Engineering and Technology, Vietnam National University Hanoi (2008-2012).

As the Director of the R&D Department – VNU Hanoi, Professor Duc proposed and established the Project to establish the Science and Technology Development Fund of Vietnam National University Hanoi. He also proposed and coordinated with the Organizational Board to develop criteria for leading scientific personnel, thereby planning training and nurturing programs for them; systematically developed the Strategic Science and Technology Development Plan of Vietnam National University for the period 2005-2010, which introduced new elements such as focusing on research on seas and islands, intellectual property rights, interdisciplinary and cross-disciplinary research, and especially emphasizing investment in building and developing strong research groups at Vietnam National University.

As the Director of Academic Affairs Department of VNU Hanoi since late 2012, Professor Nguyen Dinh Duc has spearheaded the development of a project and regulations for innovating admissions based on the High school Student Assessment (HAS) exam. He also suggested and drafted specific policies for excellent students from gifted specialized high schools, that allowed outstanding gifted students to be given priority admission to the universities and to accumulate certain courses in advance; he led and structured the majors and specializations at Vietnam National University; developed regulations for undergraduate, master’s, and doctoral training with many pioneering elements emphasizing high quality and international integration requirements.

Professor Nguyen Dinh Duc particularly focused on talent training and doctoral training. He developed an international-standard doctoral training project and a project to innovate doctoral training activities at Vietnam National University. Currently, Vietnam National University is the only institution in the country that requires research students to have international publications.

He also promoted the digitization of education management and innovation in teaching activities and emphasized STEM in training programs at Vietnam National University; he developed and implemented Vietnam National University’s Olympiad competitions to select excellent high school students nationwide to supplement the high-quality university admission human source at Vietnam National University.

Over a decade as the Director of Academic Affairs Department of VNU Hanoi, with determination and strategic vision, professor Nguyen Dinh Duc successfully led Vietnam National University through the gradual transformation of the structure of training fields from being primarily focused on basic sciences to training and researching in new, advanced, interdisciplinary engineering and technology fields. By now, the enrollment scale in Engineering and Technology at Vietnam National University has increased from 8% of the total 7,000 quotas in 2013 to over 20% of the total 15,000 quotas in 2023. The engineering and technology fields at Vietnam National University has risen to 386th globally in the QS ranking in 2022 and has become the foundation of the future development of Vietnam National University.

Currently serving as the Chairman of the University of Engineering and Technology, Professor  Nguyen Dinh Duc, along with the university’s board, is enthusiastically building the new Strategy, the Project of Autonomy, Plans, and Innovations of the Structure of Fields for the future, enhancing the mechanism of coordination and autonomy within the university, and improving the lives of faculty members. Along with the university’s board, he has developed the university’s development strategy until 2035, with a vision until 2045, aspiring for the University of Engineering and Technology to become an advanced technological university in Asia by 2035 and to enter the top 200 in the world by 2045.

A Great Pride for Generations of Students at Vietnam National University and Vietnamese Higher Education

With his outstanding contributions to Vietnam National University and national education, the President of Vietnam honored him with the Third-class Labor Medal (2016) and the Second-class Labor Medal (2022). He was recognized as an exemplary educator by the Ministry of Education and Training on the 40th Anniversary of National Education.; In 2022, he was also the first recipient of the Vietnam National University’s Teacher Award.

Professor Nguyen Dinh Duc’s being consecutively listed in the top 100 leading scientists globally in Engineering and Technology many years has affirmed the position and reputation of Vietnamese scientists on the international scientific map.

Throughout 40 years dedicated to the profession and Vietnam National University, Professor  Nguyen Dinh Duc, as an educator and scientist, has tirelessly devoted himself to the cause of education and training. His resilience, passion for science, and dedication serve as a shining example for the younger generations to follow and a source of pride for Vietnam National University and Vietnamese education in general.

VNU Hanoi – UET news

https://uet.vnu.edu.vn/nguoi-thay-thap-sang-uoc-mo-mo-duong-cho-tre-hoi-nhap-voi-nen-khoa-hoc-gioi/