Nên phát triển “trường đại học” đa ngành, đa lĩnh vực một cách thực chất thay vì phát triển “đại học”

Với hoàn cảnh đội ngũ, cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học công nghệ của Việt Nam như hiện nay thì không nên thành lập thêm nhiều đại học mà hãy phát triển thành các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực một cách thực chất và hiệu quả, đẩy mạnh tự chủ đại học để giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với chuẩn mực và trình độ, chất lượng quốc tế…

Vừa qua, dư luận xã hội rộ lên và xôn xao về việc “trường Đại học Bách Khoa Hà Nội” nâng cấp và đổi tên thành “Đại học Bách Khoa Hà Nội”. Là người gắn bó nhiều năm và trưởng thành từ Đại học Quốc gia Hà Nội, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức có những chia sẻ về mô hình này.

Nên phát triển nhiều “trường đại học” đa ngành, đa lĩnh vực thực chất thay vì phát triển “đại học” -0
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội

Mong tiếp tục đổi mới Luật Giáo dục đại học

Năm 1993, từ tâm huyết và tầm nhìn xa trông rộng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và chủ trương cũng như quyết tâm của Bộ chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập với mục tiêu thành một Đại học có quyền tự chủ cao nhất, đa ngành, đa lĩnh vực, có sứ mệnh làm nòng cột, tiên phong và đầu tàu đổi mới trong hệ thống giáo dục đại học của nước nhà.

Đại học Quốc gia Hà nội (ĐHQGHN) được thành lập trên cơ sở từ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (ban đầu có cả trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhưng sau đó đã lại tách ra). ĐHQGHN là Vietnam National University Hanoi, và các trường thành viên là các College. Giám đốc được quy định dịch ra tiếng Anh là President, hiệu trưởng các trường thành viên quy định dịch ra tiếng Anh là Rector.

Lưu ý là ĐHQGHN và Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh (ĐHQG TPHCM) vận hành theo mô hình khác nhau. ĐHQG TPHCM theo mô hình tổ hợp một cách cơ học các trường đại học thành viên gộp lại mà thành. ĐHQGHN có sự cơ cấu lại, sử dụng chung nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, với cơ chế liên thông liên kết giữa các đơn vị, mô hình a +b (một trường này tồn tại và phát triển có sự đóng góp liên thông và hỗ trợ của các trường khác), và nhờ vận hành theo mô hình “one VNU” này, ĐHQGHN đã phát huy được sức mạnh của các đơn vị thành viên, phát triển mạnh mẽ như hiện nay.

Đặc biệt bên cạnh các ngành khoa học cơ bản, lĩnh vực kỹ thuật công nghệ và y dược của ĐHQGHN đã được xây dựng, khẳng định và phát triển vượt bậc. Năm 2022, lĩnh vực Kỹ thuật Công nghệ của ĐHQGHN đã vươn lên xếp hạng thứ 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS.

Năm 2012, Luật giáo dục Đại học (GDĐH) ra đời. Một điểm mới là lần đầu tiên đã đưa khái niệm Đại học Quốc Gia và Đại học vùng vào Luật – được quy định là để các đại học này thực hiện sứ mệnh của quốc gia và của vùng.

Quy chế tổ chức hoạt động của Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quy định. Còn quy chế tổ chức và hoạt động của các Đại học vùng do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Riêng về vai trò, sứ mệnh và vị trí của 2 Đại học Quốc gia còn được ghi nhận thành hẳn 1 Điều trong Luật.

Nhưng trong Luật GDĐH 2012 cũng lần đầu tiên quy định rằng trong Đại học có các trường đại học thành viên. Cả Đại học và trường đại học đều do Thủ tướng ký quyết định thành lập.

Từ đó, chính thức ở nước ta có mô hình được nước ngoài hiểu nôm na là “trường đại học trong trường đại học”. Giám đốc Đại học là President. Hiệu trưởng các trường thành viên cũng thành President. Và đã có lần trong Hội nghị quốc tế, Phó Giám đốc ĐHQG là Vice-President được Ban tổ chức xếp ngồi hang dưới các Hiệu trưởng – President.

Luật GDĐH 2018 lại “mạnh dạn” đổi mới hơn nữa. Ngoài khái niệm Đại học Quốc gia và các Đại học vùng, còn đưa vào Luật việc có thể thành lập thêm nhiều Đại học khác (nếu đáp ứng một số điều kiện).

Theo Luật là trường đại học là cơ sở giáo dục đại học có nhiều ngành, còn đại học là có nhiều lĩnh vực. Riêng định nghĩa này cũng đã là việc phải bàn lại. Vì như trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, bao gồm nhiều khoa, với các lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Xã hội Nhân văn, Kinh tế, Luật – đâu cần có nhiều trường thành viên – rõ ràng đã là một Đại học.

Và hệ quả là, từ Luật GDĐH sửa đổi 2018, mới đây trường Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành Đại học Bách khoa Hà Nội. Và một số trường đại học khác cũng hăng hái tuyên bố tiếp tục sẽ trở thành các Đại học. Với những người quản lý giáo dục thì hiểu sự khác nhau giữa Đại học và trường đại học, còn tuyệt đại đa số xã hội thấy bất ngờ và ngạc nhiên.

Đại học Bách khoa Hà Nội

Mâu thuẫn sẽ tồn tại trong sự thống nhất

Từ trước đến nay, khái niệm trường đại học và Đại học được nhân dân và ngôn ngữ tiếng Việt đã hiểu và đồng hóa làm một, ở một khía cạnh nào đó, đều là “trường đại học” cả. Diễn đạt trong Luật tưởng như rành mạch về định nghĩa, nhưng lại sử dụng từ trùng lặp đã có trước đó và tồn tại hiện hữu trong dân gian, gây ra sự khó hiểu trong xã hội và Luật rõ ràng chưa tính đến điều này.

Hơn nữa, một điểm mới trong Luật 2018 là đưa vào khái niệm Tự chủ đại học. Và đối chiếu với các quy định để tự chủ như hiện nay, thì các trường đại học thành viên dễ thành cơ sở giáo dục đại học tự chủ hơn là đại học – và khi đó sẽ có nhiều quyền hơn cả đại học.

Nếu không cẩn thận, mâu thuẫn sẽ tồn tại trong sự thống nhất. Tự chủ các trường thành viên càng mạnh thì mâu thuẫn này càng lớn. Các đại học, trong đó kể cả 2 Đại học Quốc gia, nếu không tập hợp và tập trung được lực lượng để chỉ đạo điều hành thống nhất, sẽ không còn sức mạnh tập trung.

Với mô hình đại học 2 cấp, cái rất cần thiết là tăng quyền tự chủ mạnh hơn nữa cho Đại học. Việc áp dụng các mô hình và kinh nghiệm của nước ngoài là cần thiết, nhưng không có nghĩa ở nước ngoài có là áp dụng ngay ở Việt Nam. Cần có nghiên cứu, đánh giá sự phù hợp và hiệu quả, có cơ sở khoa học, và nhất và cơ sở thực tiễn. 

Chỉ 2 điều trên đây, đủ thấy giáo dục đại học của chúng ta đã có biết bao nỗ lực để đổi mới, và đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn vô cùng lúng túng, đôi khi thiếu thực tiễn và thiếu tư duy hệ thống.

Nếu cứ để như thế này sẽ chỉ thấy có thêm nhiều “đại học”, thêm nhiều “trường đại học” mới, và kéo theo sẽ có thêm nhiều vị có chức danh Giám đốc đại học, Hiệu trưởng các trường đại học – nhưng giáo dục đại học của chúng ta vẫn không tiến lên phía trước.

Năm 2022, không có đại học lớn nào của Việt Nam tăng hạng. Thậm chí một số đại học lớn đã bắt đầu tụt hạng.

Cho nên việc Đại học Bách Khoa Hà Nội vừa rồi tuyên bố không thành lập các trường đại học thành viên là một quyết định khôn ngoan và sáng suốt.

Xem ra mô hình ban đầu như các bậc tiền bối thành lập Đại học Quốc Gia: University và các College là chuẩn nhất và có tính hệ thống, phù hợp nhất.

Với hoàn cảnh đội ngũ, cơ sở vật chất và tiềm lực KHCN của Việt Nam như hiện nay, cá nhân tôi không ủng hộ và cổ súy cho việc thành lập thêm nhiều đại học. Mà hãy phát triển thành các trường đại học đa ngành đa lĩnh vực một cách thực chất và hiệu quả, đẩy mạnh tự chủ đại học để giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với chuẩn mực và trình độ, chất lượng quốc tế – đây mới là triết lý bất di bất dịch và là những nội dung cấp thiết nhất của đổi mới giáo dục đại học hiện nay.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc Gia Hà N

Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông

Ngày 02/12/2022, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ đã ký quyết định số 1204/QĐ-TCCB về việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông trực thuộc Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội.

   Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập vào năm 2018 theo sáng kiến và đề xuất của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức. Trước đó vào năm 2017, Nhà trường đã bắt đầu tuyển sinh và đào tạo ngành kỹ sư Công nghệ kỹ thuật – xây dựng. Trải qua 5 năm xây dựng, Bộ môn đã phát triển về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Về công tác đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh khóa I từ 60 sinh viên tăng lên 120 sinh viên, quy mô đào tạo hiện nay hơn 450 sinh viên, hoàn chỉnh các bậc đào tạo từ kỹ sư đến thạc sỹ và tiến sỹ. Điểm đầu vào ngành kỹ thuật xây dựng của Bộ môn luôn có điểm trúng tuyển cao nhất cả nước trong khối ngành xây dựng – giao thông. Đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao với tỷ lệ công bố quốc tế ISI/scopus đạt trung bình 2 bài/1 giảng viên/năm. Phát huy thế mạnh của Trường ĐH Công nghệ về công nghệ thông tin, điện tử – vi cơ điện tử, cơ học kỹ thuật, từ những ngày đầu thành lập, Bộ môn đã xây dựng và cập nhật những môn học hiện đại như công nghệ mới trong xây dựng – giao thông, thiết kế hệ thống, phát triển bền vững,… gần đây nhất là Bộ môn đã bổ sung thêm các môn học như: các công nghệ xây dựng hiện đại, BIM, trí tuệ nhân tạo trong Xây dựng Giao thông, phát triển bền vững,… góp phần tạo đà và nền tảng thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông có đặc sắc như hiện nay.

Lãnh đạo ĐHQGHN, lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ và GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức tại lễ trao Quyết định thành lập Bộ môn năm 2018

   Với những môn học hiện đại, nghiên cứu khoa học chất lượng, Bộ môn đã tăng cường hợp tác phát triển đào tạo gắn kết với doanh nghiệp, giúp sinh viên tăng cường trải nghiệm thực tiễn và hỗ trợ hướng nghiệp, việc làm trong tương lai, đồng thời Bộ môn còn hợp tác triển khai các hướng nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực xây dựng – giao thông với Viện Khoa học công nghệ xây dựng Việt Nam; Tổng Công ty CONICO; FACON; Tập đoàn Trường Thành, Đào Cả, Công ty Shimizu (Nhật Bản),…Với sự hiện diện của ngành đào tạo và Bộ môn, năm 2021, trường ĐH Công nghệ đã tham gia và là thành viên của Câu lạc bộ khối các trường đào tạo ngành xây dựng và kiến trúc.

GS Nguyễn Đình Đức tại lễ ra mắt Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ khối các trường đào tạo ngành xây dựng và kiến trúc năm 2021

   Trong 5 năm qua ,Bộ môn cũng đã triển khai hợp tác hiệu quả với trường đại học lớn của thế giới như ĐH Tổng hợp Melbourne (Úc), ĐH Tổng hợp Birmingham (Vương Quốc Anh); ĐH Tokyo, ĐH Tsukuba (Nhật Bản); ĐH Yonsei và ĐH Sejong của Hàn Quốc, chương trình ERAMUS+ của Pháp và cộng đồng châu Âu,…

Bộ môn có nhiều hợp tác về đào tạo, nghiên cứu đối với Tổng Công ty CONICO

Sinh viên Bộ môn được trải nghiệm thực tế, hỗ trợ hướng nghiệp và việc làm trong tương lai

   Sự nỗ lực trong suốt 5 năm qua của giảng viên và sinh viên Bộ môn đã được ghi dấu ấn khi nhóm sinh viên Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông là đại diện duy nhất của Việt Nam lọt vào vòng chung kết và đạt giải thưởng tại cuộc thi quốc tế về thiết kế sử dụng phần mềm BIM được tổ chức bởi công ty FORUM 8, diễn ra tại Nhật Bản năm 2022.

   Đến nay với sự phát triển về đào tạo và nghiên cứu của Bộ môn, việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông trên cơ sở Bộ môn trực thuộc trường đã chin muồi và là điều thiết yếu. Từ đó, Khoa sẽ giúp Trường triển khai vận hành chương trình đào tạo công nghệ xây dựng – giao thông theo mô hình hiện đại đáp ứng yêu cầu và sứ mệnh đào tạo nhân tài, đào tạo chất lượng cao, trình độ cao, theo phương châm đổi mới sáng tạo, học gắn với nghiên cứu, với thực tiễn và khởi nghiệp.

   Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông được thành lập sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh nghiên cứu  phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực Công nghệ kỹ thuật xây dựng – giao thông, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống công trình, giao thông theo hướng hiện đại – phát triển xanh – thông minh – bền vững, từ đó đóng góp tích cực vào sự phát triển nền kinh tế và xã hội tri thức của đất nước trong xu thế cuộc CMCN 4.0. Trên bản đồ thế giới trong lĩnh vực Civil Engineering từ nay có tên của Trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN.

   Với mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2025 “Trở thành đơn vị mạnh về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Công nghệ xây dựng, giao thông, đô thị dựa trên thế mạnh về công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, cơ học kỹ thuật và tự động hóa, vật lý kỹ thuật, công nghệ nano, công nghệ sinh học của Trường ĐH Công nghệ và các thế mạnh liên ngành, liên lĩnh vực của ĐHQGHN”, Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông ra đời là sự kiện và dấu ấn quan trọng của trường ĐH Công nghệ và ĐHQGHN.

 (UET-News)

ĐHQGHN THÀNH LẬP KHOA CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG-GIAO THÔNG

Ngày hôm nay, 02-12-2022, đúng ngày khai mạc Hội nghị Cơ học Toàn quốc lần thứ XI, Đại hội Hội Cơ học Việt Nam, kỷ niệm 40 năm thành lập Hội Cơ học Việt Nam (1982-2022) và 85 năm ngày sinh GS.VS Nguyễn Văn Đạo, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ đã ký quyết định số 1204/QĐ-TCCB về việc thành lập Khoa Công nghệ Xây dựng-Giao thông trực thuộc trường ĐH Công nghệ.

Vậy là mơ ước và công sức bao nhiêu năm nay, tôi ấp ủ từ 2008 khi còn làm Phó Hiệu trưởng ĐH Công nghệ đã thành hiện thực. 

GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức

Ngành Cơ học là nền tảng của Kỹ thuật Công nghệ, nhưng làm gì có Bộ cơ? Khoa học muốn phát triển, ngành Cơ muốn phát triển phải gắn với thực tiễn, gắn với các bộ ngành cụ thể, phải giải quyết được các vấn đề của Khoa học và Thực tiễn đề ra. Với tên gọi Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông (tiếng anh ngắn gọn là Civil Engineering), các lĩnh vực nghiên cứu sẽ định hướng gắn chặt với 2 ngành lớn nhất của đất nước là Xây dựng và Giao thông. Sự kiện này mở ra một con đường thênh thang cho sự phát triển của lĩnh vực, phục vụ tốt nhu cầu của thực tiễn.

School of Civil Engineering là một trong những khoa của ĐH Đông Dương, tiền thân của ĐHQGHN ngày nay.

Mặc dù được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Bộ môn trực thuộc trường lên Khoa, nhưng qua 5 năm phát triển, đến nay đã có quy mô đào tạo 500 sinh viên/năm (chỉ tiêu tuyên sinh 100 kỹ sư/năm), hoàn chỉnh các bậc đào tạo ThS, TS; và là đơn vị công bố quốc tế mạnh nhất trường ĐHCN cả về số lượng và chất lượng. Khoa cũng đã xây dựng được PTN hiện đại trên Hòa Lạc, là cơ sở để thực hành, nghiên cứu và đào tạo chất lượng cao. Ngay từ khi thành lập ĐH Đông Dương năm 1906, tiền thân của ĐHQGHN ngày nay, lúc đó đã có 5 Khoa, trong đó có School of Civil Engineering.

Dạt dào cảm xúc và biết bao xúc động là cảm xúc chung của Thầy và Trò Khoa Công nghệ Xây dựng-Giao thông trực thuộc trường ĐH Công nghệ. Xin cảm ơn Lãnh đạo ĐHQGHN, lãnh đạo Trường ĐH Công nghệ đã ủng hộ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho ra đời Khoa mới này.

Tin tưởng một điều chắc chắn với vị thế mới, Khoa sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần xứng đáng và hiệu quả trong sự nghiệp đào tạo nhân lực CLC, trình độ cao trong lĩnh vực Civil Engineering cho đất nước và cho ngành Xây dựng và Giao thông; đóng góp xứng đáng vào sự lớn mạnh và phát triển của ĐH Công nghệ cũng như của ĐHQGHN, và của cả ngành Cơ học của Việt Nam.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức: Làm khoa học thì không “ăn xổi” được!

GS Nguyễn Đình Đức: “Làm KH thì không “ăn xổi” được, lại càng không thể chạy theo hư danh. Đã làm KH là phải dấn thân, đam mê, dám chấp nhận thiệt thòi, hy sinh”.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Trưởng Ban Đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) được vinh danh trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn khoa học xuất sắc nhất, có tầm ảnh hưởng thế giới năm 2022.

Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức để hiểu hơn về những cố gắng và nỗ lực trong việc nghiên cứu khoa học của thầy và các đồng nghiệp.

_____

Phóng viên: Xin chúc mừng Giáo sư được vinh danh trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn khoa học xuất sắc nhất, có tầm ảnh hưởng thế giới năm 2022.

Là người liên tiếp có mặt trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong 4 năm qua và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering, Giáo sư có thể chia sẻ những yếu tố quan trọng nào giúp các công bố khoa học có sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Theo tôi, để công bố khoa học có sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới, thì trước hết nhà khoa học phải có năng lực kiến thức, trình độ và phương pháp nghiên cứu thật tốt, thật bài bản và hiện đại để đủ sức giải quyết những vấn đề lớn, mới mẻ trong khoa học; đặc biệt là phải chọn được hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại, hội nhập với thế giới; mạnh dạn dấn thân nghiên cứu những vấn đề mà trước đó chưa có ai giải quyết hoặc chưa giải quyết được; và những kết quả nghiên cứu nhận được của nhà khoa học phải có đủ tầm, có phát hiện mới, đóng góp đáng kể thúc đẩy sự phát triển của khoa học và nhờ vậy mới nhận được sự quan tâm và trích dẫn của cộng đồng khoa học quốc tế; và để duy trì và phát huy được những yếu tố trên, nhà khoa học phải xây dựng được nhóm nghiên cứu mạnh.

Những nhà khoa học có thứ hạng cao trong bảng xếp hạng mà tôi biết tên đều là các giáo sư nổi tiếng, là trưởng các nhóm nghiên cứu mạnh, đã hoặc đang làm việc trong các trường đại học lớn, uy tín của thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức luôn nhiệt huyết truyền lại kiến thức cho học trò. Ảnh: NVCC

_____
Phóng viên: Thành công của Giáo sư và các đồng nghiệp là lời khẳng định về năng lực của các nhà khoa học nước ta. Giáo sư có nghĩ vậy không?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Năm 2020 có 22, năm 2021 có 28, năm nay có 34 nhà khoa học Việt Nam làm việc cơ hữu trong nước có tên trong danh sách xếp hạng 100.000 nhà khoa học. Liên tục đều có sự gia tăng theo các năm và năm nay tăng 6 người – hơn 20% so với năm ngoái. Trong đó có những nhà khoa học xếp hạng rất cao, top 100 thế giới trong lĩnh vực.

Chúng ta có thể thấy trong bảng xếp hạng này có những nhà khoa học trong nước có thứ hạng cao không hề thua kém so với các Giáo sư Việt kiều có tên tuổi đang làm việc tại các trường đại học lớn của nước ngoài, trong khi điều kiện vật chất cho nghiên cứu ở trong nước còn khó khăn và thiếu thốn hơn rất nhiều.

NĂM 2020 CÓ 22, NĂM 2021 CÓ 28, NĂM NAY CÓ 34 NHÀ KHOA HỌC VIỆT NAM LÀM VIỆC CƠ HỮU TRONG NƯỚC CÓ TÊN TRONG DANH SÁCH XẾP HẠNG 100.000 NHÀ KHOA HỌC

GS. Nguyễn Đình Đức

Trong hoàn cảnh đó, việc ngày càng có nhiều nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng của thế giới là rất đáng tự hào, là sự nỗ lực phi thường của nhà khoa học. Kết quả này khẳng định sự lớn mạnh của tầng lớp trí thức, của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ với trình độ và các hướng nghiên cứu tiên tiến của thế giới.

Đối với những nhà khoa học lại cũng là nhà giáo như chúng tôi, sự ghi nhận này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở chỗ: thành công của thầy là niềm tự hào của các học trò, sẽ là sự động viên khích lệ các bạn trẻ vững bước trên con đường đã chọn với sự tự tin – miệt mài và cố gắng hết mình thì có thể đạt được đỉnh cao trong khoa học.

_____
Phóng viên: Giáo sư đánh giá như thế nào về môi trường nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Đảng và Nhà nước ta đã xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực, là nền tảng phát triển kinh tế xã hội. Kinh nghiệm của một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ, Trung Quốc cho thấy họ đã đầu tư cho khoa học công nghệ rất mạnh, nhờ đó đã tận dụng và nắm bắt được những cơ hội và phát triển vượt bậc trong cách mạng công nghệ 3.0. Tôi cho rằng cách mạng công nghệ 4.0 là một cơ hội tuyệt vời để Việt Nam cất cánh, và khoa học công nghệ cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chiếc đũa thần để dân tộc ta nắm bắt được những cơ hội của cuộc cách mạng này để bứt phá vươn lên.

TÔI CHO RẰNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 LÀ MỘT CƠ HỘI TUYỆT VỜI ĐỂ VIỆT NAM CẤT CÁNH, VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CÙNG VỚI NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHÍNH LÀ CHIẾC ĐŨA THẦN ĐỂ DÂN TỘC TA NẮM BẮT ĐƯỢC NHỮNG CƠ HỘI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG NÀY ĐỂ BỨT PHÁ VƯƠN LÊN

GS. Nguyễn Đình Đức

Hoạt động khoa học công nghệ thời gian qua ở Việt Nam ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi. Sự ra đời của Luật Khoa học Công nghệ, của các chương trình Khoa học công nghệ lớn, các Quỹ phát triển Khoa học công nghệ, cũng như các chính sách hỗ trợ nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu mạnh và mới đây nhất là Luật Giáo dục Đại học sửa đổi đã nhấn mạnh đến tự chủ đại học, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học phát huy tối đa các nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ, nhờ vậy, hoạt động khoa học công nghệ đã có những bước phát triển đột phá rất đáng tự hào. Ví dụ công bố quốc tế của Việt Nam từ năm 2020 đã tăng vượt bậc. Nếu năm 2011, Việt Nam chỉ có gần 1.600 công bố khoa học trên các tạp chí ISI thì sau 10 năm, đến năm 2020, con số này đã tăng gần 8 lần, đứng thứ 49 thế giới và thứ 3 trong khu vực ASEAN.

Hoạt động khoa học công nghệ nước ta cũng hướng tới thực tiễn nhiều hơn. Trước kia, nhiều đề tài nghiên cứu làm xong cất ngăn kéo nhưng giờ yêu cầu phải gắn liền với thực tiễn. Chính vì thế, đã có nhiều đề tài giải quyết thành công những yêu cầu của thực tiễn và doanh nghiệp như một số kết quả trong lĩnh vực chuyển đổi số, truyền thông (5G), nông nghiệp, dược phẩm, công nghệ sinh học… hoặc như trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe – chúng ta cũng đã có những thành công tuyệt vời về ghép tạng. Những thành tựu đó cho thấy Việt Nam có những kết quả nghiên cứu không thua kém so với thế giới.

Các chính sách về quản lý khoa học công nghệ cũng ngày càng được đổi mới, giảm thủ tục hành chính, tăng tính tự chủ và khoán từng phần, từ đó ngày càng thúc đẩy hiệu quả các hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo.

Tuy nhiên, bên cạnh những đổi mới, xung quanh hoạt động khoa học công nghệ cũng còn những tồn tại hạn chế. Tỷ lệ % GDP đầu tư cho Khoa học công nghệ ở Việt Nam còn thấp. Việc triển khai các chủ trương của Đảng còn chậm và nhiều chính sách đã ban hành chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn chưa thống nhất và chồng chéo giữa các bộ ngành. Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai còn nhỏ giọt, cầm chừng. Chưa chú trọng và chưa đầu tư đúng mức cho các nhóm nghiên cứu mạnh để phát triển thành các nhóm nghiên cứu quốc tế. Chính sách đãi ngộ, thu hút và đầu tư cho những nhà khoa học tài năng, nhất là hỗ trợ các nhà khoa học trẻ còn chưa thỏa đáng, chưa có những đột phá trong chính sách về Khoa học công nghệ.

Vì vậy, để khoa học công nghệ Việt Nam phát triển đột phá trong thời gian tới, để có thêm nhiều trường đại học, nhiều nhà khoa học Việt Nam được xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín và hội nhập mạnh mẽ với thế giới, chúng ta cần chú trọng tạo những thông thoáng trong cơ chế chính sách, đầu tư cho khoa học công nghệ thỏa đáng, dài hơi. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho con người, cho các nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn, đầu tư xây dựng và phát triển các hướng nghiên cứu mới tiên tiến, và đặc biệt là đầu tư cho các nhóm nghiên cứu mạnh – tế bào trong hoạt động nghiên cứu và triển khai.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức trình bày báo cáo mời tại phiên toàn thể tại Hội thảo quốc tế, Đại học Yonsei, Hàn Quốc (7/2017). Ảnh: NVCC

Nhóm nghiên cứu mạnh cũng chính là “tổ ấm” – là môi trường để thu hút các nhà khoa học đầu ngành và các nhân tài trong và ngoài nước đến làm việc. Nhóm nghiên cứu có vai trò cực kỳ quan trọng từ triển khai nghiên cứu đến đào tạo, chế thử, kết nối nhà khoa học với Nhà nước, doanh nghiệp và là cái nôi thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế và sản phẩm mới, và còn là môi trường để thúc đẩy khởi nghiệp.

Vì vậy, một trong những giải pháp để phát triển tiềm lực, nâng cao chất lượng hoạt động khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, để khoa học công nghệ thực sự là “chiếc đũa thần” đưa Việt Nam sánh vai với các nước năm châu, là phải chú trọng phát triển số lượng và nâng cao chất lượng tiềm lực khoa học công nghệ – xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh phải được xem như một trong những giải pháp đòn bẩy đột phá.

NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH CHÍNH LÀ “TỔ ẤM” – LÀ MÔI TRƯỜNG ĐỂ THU HÚT CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐẦU NGÀNH VÀ CÁC NHÂN TÀI TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN LÀM VIỆC

GS. Nguyễn Đình Đức

_____
Phóng viên: Theo Giáo sư, các cán bộ nghiên cứu trẻ có những ưu điểm và hạn chế gì? Thầy kỳ vọng gì ở thế hệ những nhà khoa học trẻ nước ta hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Các cán bộ trẻ khoa học trẻ ngày nay có nhiều điều kiện thuận lợi so với thế hệ chúng tôi rất nhiều: được đào tạo bài bản, rất nhiều bạn trẻ đã có thời gian học tập hoặc tu nghiệp, bồi dưỡng ở nước ngoài; có trình độ chuyên môn vững vàng, ngoại ngữ tốt; điều kiện học liệu, cơ sở vật chất tốt; khả năng hội nhập cao.

Các cán bộ trẻ ngày nay, trong đó có các nhà khoa học trẻ đều rất năng động, nắm bắt và thích ứng nhanh với những đổi mới và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Mặt khác, sống trong nền kinh tế thị trường mở cửa nên cũng “thực tế” hơn.

Cái mà tôi mong muốn ở các bạn trẻ là sự kiên trì và bền bỉ. Làm khoa học thì không “ăn xổi” được, lại càng không thể chạy theo hư danh. Đã làm khoa học là phải dấn thân và đam mê, dám chấp nhận thiệt thòi, hy sinh.

Tôi tin là các bạn trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước sẽ luôn giữ được hoài bão và khát vọng cống hiến, khát vọng chấn hưng đất nước; rèn đức luyện tài, nghiêm túc và cần cù trong công việc; hội nhập với các chuẩn mực và trình độ quốc tế; nắm bắt được những cơ hội của thời đại, của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 để sáng tạo, khởi nghiệp, xứng đáng là lực lượng chủ lực xây dựng và kiến thiết đất nước, làm rạng danh cho Tổ quốc.

LÀM KHOA HỌC THÌ KHÔNG “ĂN XỔI” ĐƯỢC, LẠI CÀNG KHÔNG THỂ CHẠY THEO HƯ DANH. ĐÃ LÀM KHOA HỌC LÀ PHẢI DẤN THÂN VÀ ĐAM MÊ, DÁM CHẤP NHẬN THIỆT THÒI, HY SINH

GS. Nguyễn Đình Đức

_____
Phóng viên: Với kinh nghiệm gần 40 năm học tập bền bỉ và nghiên cứu khoa học, đặc biệt với nhiều nghiên cứu quan trọng mang tính tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về vật liệu mới và cơ học, vậy Giáo sư có thể chia sẻ thêm về lĩnh vực này?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của tôi và nhóm nghiên cứu là các lĩnh vực liên quan đến vật liệu và kết cấu composite tiên tiến: như composite polyme nhiều pha; vật liệu carbon-carbon siêu bền nhiệt; vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi (FGM), vật liệu nano; vật liệu mới làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời; vật liệu composite áp điện có cơ lý tính biến đổi; vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ); các vật liệu composite có tính năng cơ lý cao sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt; các vật liệu tiên tiến nhất như penta-graphene đáp ứng yêu cầu lưu trữ thông tin lớn của cách mạng công nghiệp 4.0; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và machine learning trong tối ưu hóa vật liệu và kết cấu composite,…

Đây đều là các hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại, lại vừa có tính ứng dụng thực tiễn cao. Vừa hội nhập với cộng đồng khoa học quốc tế, lại vừa đáp ứng yêu cầu định hướng phục vụ thực tiễn ở Việt Nam.

Để có được những thành công như ngày hôm nay, tôi đã phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, thiếu thốn trăm bề; nhưng nhờ có lòng kiên trì, nghị lực bền bỉ, cũng như sự ủng hộ của nhà trường, đồng nghiệp, tôi đã vượt qua được những khó khăn thử thách, xây dựng được nhóm nghiên cứu mạnh, xây dựng được phòng thí nghiệm mới, khoa mới, ngành mới: là phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến, Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng Giao thông ở Trường Đại học Công nghệ, ngành Civil Engineering ở Trường Đại học Việt Nhật, Ngành Tự động hóa và Tin học ở Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội và đào tạo được nhiều thế hệ học trò giỏi giang, thành tài. Trải qua 40 năm bền bỉ với nghề, tôi đã xây dựng được trường phái khoa học về vật liệu composite tiên tiến, có uy tín ở Đại học Quốc gia Hà Nội, được biết đến trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cùng học trò xuất sắc của mình – Trần Quốc Quân trong lễ bảo vệ luận án tiến sĩ. Ảnh: NVCC

_____
Phóng viên: Là nhà giáo tận tâm và có nhiều năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục đào tạo, nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Giáo sư có điều gì trăn trở về nền giáo dục Việt Nam?

“NGHỀ DẠY HỌC LÀ NGHỀ CAO QUÝ NHẤT TRONG CÁC NGHỀ CAO QUÝ” SỐ PHẬN ĐÃ RUN RỦI TÔI TRỞ THÀNH NHÀ GIÁO VÀ TÔI CẢM THẤY VINH DỰ VÀ TỰ HÀO VÌ ĐIỀU ĐÓ

GS. Nguyễn Đình Đức

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Số phận đã run rủi tôi trở thành nhà giáo và tôi cảm thấy vinh dự và tự hào vì điều đó. Nhân ngày 20/11, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và tri ân tới các thầy cô giáo đã dạy dỗ chúng tôi nên người, và cũng xin kính chúc các thầy cô giáo – các đồng nghiệp của tôi – mạnh khỏe, hạnh phúc, và luôn giữ được ngọn lửa nhiệt huyết trong sự nghiệp trồng người.

Điều mà tôi luôn trăn trở là giáo dục Việt Nam hãy thực hiện thật tốt việc “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Mọi hoạt động dạy và học, nghiên cứu khoa học phải thực chất, hội nhập với trình độ, chất lượng và chuẩn mực quốc tế. Nhà giáo phải có tâm và tận tụy với học trò, khơi dậy được tiềm năng của các học trò, thắp sáng lên được năng lực tư duy và sáng tạo của mỗi học sinh để các em thành công và thành tài trong cuộc đời. Và tôi nghĩ đó cũng là những nội hàm giản dị, chân thực nhất của triết lý và mục tiêu giáo dục mà tôi hằng ấp ủ.

_____
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite. Giáo sư Đức đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, tác giả của 2 bằng phát minh sáng chế. Giáo sư Đức cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã từng là giáo sư nghiên cứu và thỉnh giảng của các trường đại học danh tiếng của thế giới như: Moscow State University; Mechanical Engineering Research Institute of Russian Academy of sciences (LB Nga); Japan Advanced Institute of Sciences and Technology (JAIST – Nhật Bản); University of Birmingham (Vương quốc Anh), Sejong University (Hàn Quốc).

Liên tục 4 năm liền, năm 2019, 2020, 2021, 2022 Giáo sư Nguyễn Đình Đức được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong top 10.000 nhà khoa học có chỉ số trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering năm 2022.

Ông cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.

Doãn Nhàn

03 nhà giáo của ĐHQGHN được công nhận nhà giáo tiêu biểu 40 năm ngành giáo dục

Ngày 11/11/2022, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định tặng Bằng khen cho 400 nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

Trong số đó, ĐHQGHN có 03 nhà giáo vinh dự được nhận Bằng khen này. Đó là: GS.TS Mai Trọng Nhuận – Chủ tịch Hội đồng Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐHQGHN, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN và GS.TS Lê Ngọc Thành – Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược, ĐHQGHN.

GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc ĐHQGHN, được công nhận chức danh giáo sư khoa học trái đất năm 1996, nhà giáo ưu tú năm 2008; đã từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo, quản lý trường đại học thành viên của ĐHQGHN từ năm 1996 và giữ chức Giám đốc ĐHQGHN từ tháng 10/2007; Bí thư Đảng ủy ĐHQGHN từ tháng 9/2011. GS.TS Mai Trọng Nhuận đã có nhiều đóng góp trong đề xuất các chủ trương đổi mới và giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả mọi hoạt động, thực hiện được mục tiêu phát triển ĐHQGHN từng bước đạt chuẩn quốc tế. Trong đó có đổi mới quản trị đại học theo sản phẩm đầu ra; xây dựng, phát triển ngành và chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế; kiểm định chất lượng theo chuẩn khu vực và quốc tế… Với những cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học cho đất nước nói chung và ĐHQGHN nói riêng, GS.TS Mai Trọng Nhuận đã được nhận: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (1998), Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (2002), Huân chương lao động hạng Ba (2005), Giải thưởng Cành cọ hàn lâm của Chính phủ Cộng hòa Pháp (2007), Bằng khen của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (2009, 2012), nhiều năm liên tiếp đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp và các danh hiệu cao quý khác.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, tác giả của 2 bằng phát minh sáng chế. GS. Nguyễn Đình Đức là thành viên Hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới. Ông từng là giáo sư nghiên cứu và thỉnh giảng của các trường đại học danh tiếng của thế giới như: Moscow State University; Mechanical Engineering Research Institute of Russian Academy of sciences (Liên bang Nga); Japan Advanced Institute of Sciences and Technology (JAIST – Nhật Bản); University of Birmingham (Vương quốc Anh), Sejong University (Hàn Quốc). Ông là người đề xuất và mở chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Cơ kỹ thuật; sáng lập Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, Trường ĐH Công nghệ); Xây dựng đề án và mở ngành Kỹ thuật hạ tầng, Trường ĐH Việt Nhật; Mở ngành Tự động hóa và Tin học, Trường Quốc tế, ĐHQGHN. Ông đã kiên trì và bền bỉ góp phần tích cực và hiệu quả để thúc đẩy lĩnh vực Engineering của ĐHQGHN được xếp hạng 386 trong bảng xếp hạng thế giới, đào tạo nhiều TS trẻ tài năng trong lĩnh vực này ở ĐHQGHN và cho các trường đại học khác trên cả nước. Liên tục 4 năm liền, năm 2019, 2020, 2021, 2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong top 10.000 nhà khoa học có chỉ số trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới và đứng thứ 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering năm 2022. Ông cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời. Năm 2022, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng nhì của Chủ tịch nước.

GS.TS Lê Ngọc Thành hiện là Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược, ĐHQGHN. Ông tốt nghiệp đại học ngành Bác sĩ đa khoa Ngoại Sản năm 1984; Thạc sĩ, BS Nội trú năm 1987; Tiến sĩ năm 2001 tại Trường ĐH Y Hà Nội. Ông được trao tặng Huân chương lao động hạng Nhì năm 2013, được công nhận chức danh Giáo sư Y học năm 2015, phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân năm 2017. GS.TS Lê Ngọc Thành đã từng trải qua các chức vụ lãnh đạo, quản lý như: Trưởng khoa Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Việt Đức; Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam; Ủy viên BCH Hội Phẫu thuật viên Tim mạch châu Á; Tổng biên tập Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Công nghệ Sự sống – một trong các Hội đồng chuyên môn của ĐHQGHN, Giám đốc Bệnh viện E kiêm Giám đốc Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện… Vừa qua, GS.TS Lê Ngọc Thành đã đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Nhà khoa học được xếp hạng trong nhóm 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới

Kết quả này vừa công bố ngày 10/10/2022. Tác giả của công bố này vẫn là nhóm Metrics của giáo sư John P.A. Ioannidis và các cộng sự của Đại học Stanford của Hoa Kỳ nghiên cứu và công bố trên tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ. Theo đó, tác giả đã dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ 1960 đến tháng 1/9/2022 trong hơn 7 triệu nhà khoa học và lọc ra nhóm 100 nghìn người có ảnh hưởng nhất. Theo đó, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông; Trưởng PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Trường ĐH Công nghệ (ĐHQGHN) là một trong hai nhà khoa học được xếp hạng trong nhóm 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.

   Như những năm trước, nghiên cứu không có sự thay đổi trong công cụ đo lường và đánh giá khi nhóm nghiên cứu cập nhật cơ sở dữ liệu của hơn 100 nghìn nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất (từ nguồn dữ liệu của Scopus) và xếp hạng của họ dựa vào các tiêu chí quan trọng như: chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học (composite score); tổng số trích dẫn (không bao gồm các tự trích dẫn); chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index; số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất (single author); số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính (tên đầu tiên – first author và tác giả liên hệ – corresponding author), và tác giả cuối cùng – last author.

Các nhà khoa học được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Theo bảng xếp hạng mới nhất vừa được cập nhật công bố ngày 10/10/2022, trong số các nhà khoa học Việt Nam cơ hữu đang công tác thường xuyên trong nước, có 2 nhà khoa học có mặt trong bảng xếp hạng trong nhóm 10 nghìn thế giới và 34 nhà khoa học trong nhóm 100 nghìn nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2022. 2 nhà khoa học xếp hạng cao trong nhóm 10 nghìn thế giới là GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và PGS.TS Lê Hoàng Sơn, đều từ Đại học Quốc gia Hà Nội.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, PGS.TS Lê Hoàng Sơn xếp hạng 5817 và vị trí 222 trong lĩnh vực CNTT và Truyền thông, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, xếp hạng 7455 và vị trí 94 thế giới trong lĩnh vực Engineering.

Như vậy GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và PGS Lê Hoàng Sơn có mặt trong nhóm 10 nghìn nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới trong 4 năm liên tiếp từ 2019 đến nay.

Những kết quả đáng tự hào này một lần nữa tiếp tục khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với trình độ và các hương nghiên cứu tiên tiến của thế giới.

Nguồn, dựa trên công bố “Updated science-wide author databases of standardized citation indicators” ngày 10.10. 2022 của John P.A. Ioannidis và các cộng sự: https://elsevier.digitalcommonsdata.com/datasets/btchxktzyw/4?fbclid=IwAR2y3zLZLRQXi3HI5drOXdS5LqHR0SUclUvTrIObd76IGXlLFT-Ka4oXqI0

Điểm thi đại học cận ngưỡng tuyệt đối: Hết sức nguy hiểm!

(Dân trí) – Với việc sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT để tuyển vào ĐH khi đề thi cực dễ như 3 năm vừa qua là hết sức nguy hiểm và có thể để lại những hệ lụy lâu dài, nguy hiểm với giáo dục đại học Việt Nam.

Tôi đã cất công tìm, xem lại các dữ liệu lưu trữ, năm 2015, khi ĐH Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) chỉ sử dụng duy nhất kết quả đánh giá năng lực để tuyển sinh (điểm tối đa 150), điểm trúng tuyển một số ngành hot như sau: Công nghệ thông tin: 103; Quan hệ công chúng: 89,5; Quốc tế học: 89; Đông phương học: 95 (chưa có Hàn Quốc học); Báo chí: 90…

Năm 2014, khi còn thi 3 chung (điểm tối đa 30), điểm trúng tuyển các ngành này như sau: Công nghệ thông tin (khối A): 22,  Khối C (C00): Quan hệ công chúng: 22; Quốc tế học: 20,5; Đông Phương học: 22; Báo chí: 22…

Chênh nhau nửa điểm trong kỳ thi 3 chung, đã là tự hào, đã là một trời một vực.

Năm nay, điểm trúng tuyển vào những ngành hot lại tiếp tục cận ngưỡng gần như tuyệt đối ngành Công nghệ thông tin ĐHQGHN là 29,15; Quốc tế học: 29,95; Quan hệ công chúng 29.95; Hàn Quốc học: 29,95; Báo chí: 29.5 với tổ hợp C00.

Mừng không: nói thẳng là không! Điểm cao mà vẫn nóng hết cả mặt !

Điểm thi đại học cận ngưỡng tuyệt đối: Hết sức nguy hiểm! - 1
Thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT năm 2022 (Ảnh: Mạnh Quân).

Với điểm thi tốt nghiệp THPT như vậy, nên từ năm ngoái cho đến năm nay, việc nhiều trường đại học, nhất là các đại học lớn, uy tín, chỉ sử dụng một tỷ lệ nhất định chỉ tiêu xét tuyển theo kết quả thi tốt nghiệp THPT, và buộc đã phải sử dụng nhiều phương thức khác nhau để tuyển sinh, trong đó có các kỳ thi riêng, đánh giá năng lực (ĐGNL) là để tuyển các thí sinh có chất lượng vào đại học – vì sự phát triển sống còn của chính trường đại học.

Với nhà trường, phải có thầy giỏi, trò giỏi!

Đã thế, đề thi tốt nghiệp THPT lại chạy theo dư luận. Năm ngoái tiếng Anh điểm cao, mưa điểm giỏi, khoảng 20% từ điểm 8 trở lên, xã hội kêu, thì năm nay lại thít lại hơn 10%; Năm 2018, tỷ lệ này dưới 5%.

Môn Sử, điểm thấp, dư luận xã hội lên tiếng, đại biểu quốc hội lên tiếng, tốn bao là giấy bút, thế là chỉ từ 5,44% thí sinh điểm 8 trở lên, năm nay tỷ lệ này 18,1% (chả trách điểm khối C00 cao ngất).

Cứ thất thường và thiếu bản lĩnh như thế, thật khó lường cho thí sinh.

Với việc sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT để tuyển vào ĐH khi đề thi cực dễ như những năm 2020, 2021, 2022, lại cộng thêm việc coi thi, chấm thi ở các địa phương khác nhau, có thể rất khác nhau, thậm chí là có vấn đề (năm ngoái, trường THPT nội trú số 2 Nghệ An, 36 em đạt điểm tuyệt đối 30 điểm – một kết quá khó tin và gần 20 em này đã trúng tuyển vào ngành Hàn Quốc học của Xã hội Nhân văn – 8 em trong số đó đã nhập học) – là hết sức nguy hiểm và có thể để lại những hệ lụy lâu dài và nguy hiểm với giáo dục đại học Việt Nam.

Điểm thi đại học cận ngưỡng tuyệt đối: Hết sức nguy hiểm! - 2
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức.

Bộ GD&ĐT vô can?

Theo định hướng của Bộ GD&ĐT, việc tuyển sinh dùng kết quả THPT như hiện nay cơ bản ổn định, kéo dài đến 2025.

Cũng theo Luật giáo dục đại học mới sửa đổi, tuyển sinh ĐH là việc của các trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo là vô can. Với cách diễn đạt này trong Luật, Bộ giũ bỏ được trách nhiệm và áp lực lên Bộ về kỳ thi tuyển sinh đại học. Nhưng trên thực tế hiện nay lại không phải như vậy.

Cũng cần phải hiểu cho đúng thế nào là tuyển sinh, là việc của các trường, giao cho các trường? Mạnh trường nào tổ chức thi riêng cho trường ấy cũng không ổn.

Thí sinh muốn thử sức vào nhiều trường, lại phải trải qua nhiều kỳ thi riêng khác nhau. Hơn nữa rất dễ nảy sinh tiêu cực khi chuyển trường, chuyển ngành ở những ngành hot. Phải có mặt bằng năng lực chung để đảm bảo khách quan và công bằng.

Cho nên không phải ngẫu nhiên ở Mỹ đại học thì có kỳ thi SAT, ACT, sau đại học có kỳ thi GMAT, GRE.

Trên cơ sở kết quả điểm thi ĐGNL này, tùy từng trường mới lại có chính sách tuyển sinh riêng và việc tuyển sinh là việc riêng của các trường được thực hiện trong mối ràng buộc đó.

Cho nên hiểu một cách đơn giản tuyển sinh trường nào, trường nấy tự lo mà không có sự cầm cân nảy mực về chất lượng chung là thiếu thực tế và không khả thi ở Việt Nam.

Một lần nữa, vấn đề đổi mới tuyển sinh đại học lại gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh. Bộ GD&ĐT không thể đứng ngoài cuộc. Các cơ quan nhà nước, quốc hội không thể đứng ngoài cuộc.

Và xem ra, nếu không học thật, thi thật, nhân tài thật; không đổi mới một cách bài bản, căn cốt để tuyển đầu vào có chất lượng, thực chất; cứ nhắm mắt buông xuôi chạy theo số lượng (dễ dãi đầu vào, tăng quy mô – để đủ kinh phí trang trải cho tự chủ), giáo dục đại học Việt Nam sẽ còn nhiều truân chuyên.

10 nhà khoa học Việt vào bảng xếp hạng thế giới

10 nhà khoa học làm việc trong nước được website Research.com xếp hạng ở 6 lĩnh vực vì “thành tích xuất sắc trong công bố khoa học”.

Website Research.com, cổng thông tin điện tử uy tín dành cho các nhà khoa học thế giới, tháng này công bố kết quả xếp hạng các nhà khoa học có thành tích xuất sắc trong công bố khoa học.

Research.com phân chia thành 24 lĩnh vực để xếp hạng. 10 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc trong nước, trong đó có 4 nhà khoa học làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội, được xếp hạng ở 6 lĩnh vực: Kỹ thuật và Công nghệ, Khoa học Máy tính, Khoa học Môi trường, Khoa học Vật liệu, Cơ khí và Kỹ thuật hàng không vũ trụ, Y học cộng đồng.

Lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ là GS.TS KH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông là một trong những nhà khoa học đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Cơ học và vật liệu composite. Ông đã công bố trên 300 công trình khoa học, trong đó có 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Trong ba năm liên tiếp 2019, 2020, 2021 ông lọt vào top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới.

GS.TS KH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: VNU

GS.TS KH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: VNU

Lĩnh vực Khoa học Môi trường có GS.TS Phạm Hùng Việt và PGS.TS Từ Bình Minh, đều từ trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông Việt hiện là Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ phân tích phục vụ kiểm định môi trường và An toàn thực phẩm, Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh. Ông có hơn 100 công trình, bài báo công bố, sở hữu nhiều bằng sáng chế.

PGS.TS Từ Bình Minh là nhà khoa học trong lĩnh vực hóa học. Chỉ trong hai năm 2019, 2020, nhóm nghiên cứu của ông đã công bố trên 20 công trình đăng trên các tạp chí quốc tế thuộc dÔng mục ISI uy tín, nhiều tạp chí trong số đó thuộc TOP 5% theo lĩnh vực chuyên sâu. Hướng nghiên cứu chính của nhóm là tập trung vào xây dựng các phương pháp phân tích chính xác đạt đến lượng vết (trace), siêu vết (super trace level) các hợp chất hữu cơ khó phân hủy (POPs) và các hợp chất hữu cơ gây rối loại nội tiết (Endocrine disrupting chemicals) trên các thiết bị phân tích hiện đại.

Cơ khí và Kỹ thuật hàng không vũ trụ gồm bốn nhà khoa học Việt Nam: GS Nguyễn Xuân Hùng và PGS Phùng Văn Phúc (Đại học Công nghệ TP HCM); PGS Nguyễn Thời Trung và PGS Thái Hoàng Chiến (Đại học Tôn Đức Thắng). Bảng xếp hạng còn có một người nước ngoài nhưng lấy tên địa chỉ Đại học Tôn Đức Thắng.

Y học cộng đồng có PGS Trần Xuân Bách, Đại học Y Hà Nội. Trần Xuân Bách trở thành Phó giáo sư trẻ nhất Việt Nam ở tuổi 32 năm 2016. Ông có hơn 300 bài báo trên các tạp chí quốc tế được đánh giá cao về khoa học sức khỏe toàn cầu.

PGS Trần Xuân Bách. Ảnh: Đại học Johns Hopkins

PGS Trần Xuân Bách. Ảnh: Đại học Johns Hopkins

Khoa học Vật liệu là GS Nguyễn Văn Hiếu, Đại học Phenikaa. Ông từng được biết đến là giáo sư trẻ nhất Việt Nam năm 2015 và nhận được giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2016. Ông là tác giả, đồng tác giả của hàng trăm công trình khoa học trên tạp chí ISI/Scopus, trong đó nhiều bài báo quốc tế giá trị với lượt trích dẫn cao. GS Hiếu cũng là 1 trong 2 nhà khoa học Việt Nam đứng top đầu trong lĩnh vực Khoa học Vật liệu thế giới.

GS Nguyễn Văn Hiếu. Ảnh: Đại học Phenikaa

GS Nguyễn Văn Hiếu. Ảnh: Đại học Phenikaa

Khoa học máy tính có PGS.TS Lê Hoàng Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội. PGS Sơn công bố hơn 180 công trình, bài báo trên các tạp chí nước ngoài trong dÔng mục ISI. Ông lọt vào top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất của thế giới trong 3 năm liên tiếp 2019, 2020, 2021.

Ngoài ra, lĩnh vực Hóa học là GS Nguyễn Văn Tuấn (Phiiippe Derreumaux), Việt kiều Australia, mang tên Đại học Tôn Đức Thắng.

Vị trí một nhà khoa học trong bảng xếp hạng được đánh giá dựa trên chỉ số D-index, chỉ số đánh giá trên cơ sở các bài báo khoa học và giá trị trích dẫn trong một lĩnh vực cụ thể. Với đợt xếp hạng lần này, Research.com đã xem xét dữ liệu của 166.880 nhà khoa học có năng suất công bố và trích dẫn hàng đầu thế giới.

Trước đó, tháng 10/2021, tạp chí PLoS Biology (Mỹ) công bố kết quả xếp hạng 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2021. Theo thứ tự bảng xếp hạng, GS.TS KH Nguyễn Đình Đức và PGS.TS Lê Hoàng Sơn là hai trong số 5 nhà khoa học Việt Nam vào nhóm 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới.

Ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, ngoài GS.TS KH Nguyễn Đình Đức của Đại học Quốc gia Hà Nội còn có ba người nước ngoài đứng tên Đại học Tôn Đức Thắng và Đại học Duy Tân.

Ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, ngoài GS.TS KH Nguyễn Đình Đức của Đại học Quốc gia Hà Nội còn có ba người nước ngoài đứng tên Đại học Tôn Đức Thắng và Đại học Duy Tân.

Bình Minh – Phương Uyên – Như Quỳnh

Những nhà khoa học nào của Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng thế giới?

(Dân trí) – Trong tháng 8/2022, website Research.com đã công bố kết quả xếp hạng các nhà khoa học thế giới có thành tích xuất sắc trong công bố khoa học.

Về phương pháp xếp hạng của Research.com (Thu thập dữ liệu công bố và trích dẫn của các nhà khoa học và xếp hạng các nhà khoa học trong danh sách các nhà khoa học có công bố và trích dẫn hàng top đầu của thế giới trong các lĩnh vực), hệ thống đánh giá dựa trên chỉ số D-index của nhà khoa học – đây là chỉ số H-index và số bài báo theo lĩnh vực của các nhà khoa học trên hệ thống cơ sở dữ liệu của IEEE, ACL, Springer, AAAI, USENIX, Elsevier, ACM và LIPIcs. Trong đó, với đợt xếp hạng lần này,  website Research.com đã xem xét dữ liệu của 166,880 nhà khoa học có năng suất công bố và trích dẫn hàng đầu thế giới.

Research.com phân chia thành 24 lĩnh vực để xếp hạng, đó là: Animail Science and Veterinary; Biology and Biochemistry; Business and Maanagement; Chemistry; Computer Science; Earth Science; Ecology and Evolution; Economics and Finance; Electronics and Electrical Engineering; Engineering and Technology; Environmental Sciences; Genetics and Molecular Biology; Immunology; Law and Political Science; Mathematics; Mechanical and Aerospace Engineering; Medicine; Microbiology and Neuroscience.

Trong 24 lĩnh vực này, các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận có tên trong các lĩnh vực, cụ thể như sau:

Lĩnh vực Hóa Học, có 1 người, là GS Nguyễn Văn Tuấn (Phiiippe Derreumaux), là Việt Kiều Úc, mang tên trường ĐH Tôn Đức Thắng.

Lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, có 1 người Việt Nam, là GS Nguyễn Đình Đức, ĐH Quốc gia Hà Nội. Trong lĩnh vực này lấy địa chỉ Việt Nam còn có 3 người nước ngoài, trong đó 2 người lấy địa chỉ trường ĐH Tôn Đức Thắng, 1 người đứng tên trường ĐH Duy Tân.

Lĩnh vực Khoa học Môi trường, Việt Nam có 2 người, đều của ĐH Quốc Gia Hà Nội, là GS Phạm Hùng Việt và PGS Từ Bình Minh.

Lĩnh vực Khoa học Máy tính, có 1 người, là PGS Lê Hoàng Sơn, ĐH Quốc gia Hà Nội.

Lĩnh vực Khoa học Vật liệu, có GS Nguyễn Văn Hiếu của trường ĐH Phenikaa.

Lĩnh vực Cơ khí và Kỹ thuật hàng không vũ trụ: người Việt Nam có 4 người, trong đó trường ĐH Công nghệ HCM có 2 người là GS Nguyễn Xuân Hùng và PGS Phùng Văn Phúc; Trường ĐH Tôn Đức Thắng có 2 người là PGS Nguyễn Thời Trung và PGS Thái Hoàng Chiến.

Ngoài ra còn có 1 người nước ngoài nhưng lấy tên địa chỉ trường ĐH Tôn Đức Thắng, Việt Nam cũng có tên trong bảng xếp hạng.

Có 2 người trong lĩnh vực y học cộng đồng là GS Hoàng Văn Minh, trường ĐH Y tế Công cộng và PGS Trần Xuân Bách, trường ĐH Y Hà Nội .

Như vậy, trên thực tế, theo bảng xếp hạng này, thực lực các nhà khoa học Việt Nam đang làm việc trong nước chỉ có mặt trong 6 lĩnh vực là: Kỹ thuật Công nghệ, Khoa học Máy Tính, Khoa học Môi trường, Khoa học Vật Liệu, Cơ khí và Kỹ thuật hàng không vũ trụ, Y học cộng đồng, và chỉ có 11 người được có tên trong bảng xếp hạng theo các lĩnh vực.

Điều thú vị là các nhà khoa học Việt Nam được xếp hạng đều từ các trường đại học, đều là trưởng các nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó, ĐH Quốc gia Hà Nội dẫn đầu, có nhà khoa học được thế giới xếp hạng trong cả 3 lĩnh vực: Kỹ thuật Công nghệ, Khoa học Môi trường, Khoa học máy tính.

Những con số thống kê trên phản ánh sự tiến bộ, nỗ lực và hội nhập không ngừng của các nhà khoa học Việt Nam, những lĩnh vực mà Việt Nam được ghi nhận trên bản đồ khoa học của thế giới.

Đồng thời cũng cho thấy khoa học công nghệ Việt Nam phải tiếp tục phấn đấu nhiều hơn nữa. Phải đầu tư hơn nữa cho các nhà khoa học, cho các nhóm nghiên cứu mạnh, cho các trường đại học và cho các mũi nhọn trọng điểm, để khoa học công nghệ Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực và trình độ quốc tế, hội nhập mạnh mẽ hơn với khoa học của thế giới.

   (Nguồn: https://research.com)