GS Nguyễn Đình Đức: Cần có chuẩn mực quốc tế trong đánh giá, sử dụng và đãi ngộ giáo sư, phó giáo sư


Dân trí 1.4.2017: GS Nguyễn Đình Đức – ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng, sử dụng và đãi ngộ xứng đáng, theo đúng tài năng, không cào bằng sẽ là giải pháp sâu xa và bền vững để nâng cao chất lượng giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS).

Góp ý về Dự thảo về tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS,PGS mà Bộ GD&ĐT đang xin ý kiến, GS Nguyễn Đình Đức – ĐH Quốc gia Hà Nội nhận định: “Việc xét và công nhận đạt chuẩn cũng như bổ nhiệm chức danh GS và PGS của Việt Nam trong thời gian qua trên thực tế là đã dựa trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của quốc tế và có áp dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, và luôn được từng bước đổi mới, cải tiến và nâng cao chuẩn, tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế.

Thực tế cho thấy các GS, PGS của Việt Nam được bổ nhiệm trong thời gian qua đã có nhiều đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chúng ta đã hình thành được đội ngũ trí thức đầu ngành, đầu đàn là các GS, PGS ở các trường đại học và các viện nghiên cứu lớn của đất nước.

Tuy nhiên, phải thừa nhận là mặt bằng chung các tiêu chuẩn chức danh GS, PGS của Việt Nam (ngay cả trong Dự thảo mới) còn thấp so với tiêu chuẩn GS, PGS của các nước tiên tiến, và vì vậy việc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước nghiên cứu để đổi mới, nâng cao các tiêu chuẩn với các GS, PGS như hiện nay là rất cần thiết và kịp thời”.

Tiêu chuẩn bài báo thuộc hệ thống ISI, Scopus như dự thảo vẫn là thấp so với mặt bằng chung thế giới

Thưa GS, theo nhiều nhà khoa học, những đổi mới được đưa vào dự thảo vẫn chỉ ở dạng “nửa vời”, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong đợi cho tiến trình hội nhập quốc tế. Theo Dự thảo thì từ năm 2019, ứng viên GS nhóm ngành khoa học tự nhiên – công nghệ phải có ít nhất 2 bài báo, ứng viên nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn có ít nhất 1 bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus – quy định như vậy có nhẹ nhàng quá không ?

Các tiêu chí như Dự thảo đã có nhiều đổi mới và có lộ trình trong điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên chính xác hơn là xã hội vẫn mong muốn Bộ giáo dục Đào tạo và Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, mạnh tay nâng cao hơn nữa các yêu cầu, tiêu chí với các tiêu chuẩn chức danh GS, PGS.

Dự kiến ứng viên GS nhóm ngành khoa học tự nhiên – công nghệ phải có ít nhất 2 bài báo, ứng viên nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn có ít nhất 1 bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus vẫn là thấp so với mặt bằng PGS, GS của các nước trên thế giới.

Ví dụ ngay như Viện KHCN Hàn Quốc, yêu cầu với NCS là khi tốt nghiệp để bảo vệ được luận án tiến sĩ tối thiểu phải có 2 bài báo trên tạp chí quốc tế SCI hoặc nếu là tạp chí SCIE phải có 3 bài, và tổng IF phải lớn hơn 3. Tuy nhiên, ở Việt Nam, theo tôi cần có lộ trình và tiêu chí phù hợp với từng ngành mới khả thi.

Việc các cơ sở đào tạo đại học ngày càng có nhiều GS, PGS có chất lượng cao sẽ làm uy tín và tăng xếp hạng của cơ sở giáo dục đại học đó. Nhưng có nhiều theo số lượng mà chất lượng không cao, các tiêu chí quá thấp so với thế giới thì lại phản tác dụng.

Hiện nay, chúng ta đã quyết tâm nâng cao chất lượng và chuẩn đầu ra với các NCS, do đó không có lý do gì để chậm chễ áp dụng, nâng cao tiêu chí với đội ngũ người thầy là các GS, PGS. Điều này chắc chắn sẽ làm giảm số lượng GS và PGS và có thể có tình trạng có một số ngành và chuyên ngành sẽ không có GS,PGS mới trong một vài năm tới.

Đây là cái giá chúng ta phải trả và chấp nhận để nâng cao chất lượng đội ngũ, và sẽ là cú huých nhằm tăng chất lượng và uy tín của đội ngũ trí thức Việt Nam, làm tăng chất lượng và uy tín của nền giáo dục đại học Việt Nam – Tôi cho rằng đây cũng chính là điều mà dư luận xã hội rất đang mong đợi ở Bộ Giáo dục Đào tạo và Hội đồng Chức danh GSNN trong đợt cải tổ lần này.

Hiện nay chúng ta có đội ngũ nhiều tiến sĩ trẻ được đào tạo bài bản ở trong nước và nước ngoài, có thực tài, có năng lực nghiên cứu xuất sắc và nhiều hoài bão trong khoa học, tôi hoàn toàn tin tưởng chắc chắn sau 5-10 năm chúng ta sẽ có đội ngũ GS, PGS đạt tiêu chuẩn như các nước tiên tiến.

Tiêu chí về công bố quốc tế với GS, PGS ở tất cả các ngành là cần thiết

Vậy có nên xem xét tính đặc thù của từng ngành để quy định về bài báo như khối Khoa học xã hội nhân văn?

Việc xem xét tính đặc thù của từng ngành là cần thiết. Trong năm qua hội đồng ngành Vật lý và Cơ học có 100% ứng viên GS và PGS đều có công bố trên các tạp chí quốc tế ISI. Với một số hội đồng ngành như toán học, vật lý, hóa học và cơ học,….có thể để xuất có mặt bằng tiêu chí cao hơn so với mặt bằng chung, điều này cũng sát và phù hợp với thực tế ở Việt Nam.

Tuy nhiên tôi cũng lưu ý là ví dụ như với bậc NCS, các nước tiên tiến thường đòi hỏi trước khi bảo vệ luận án NCS phải công bố được tối thiểu 2 bài báo trên tạp chí ISI có uy tín, và không có ngoại lệ với bất kỳ ngành nào.

Chính vì vậy, các NCS trong khối ngành KH xã hội nhân văn, kinh tế luật làm luận án tiến sỹ thường có thời gian kéo dài hơn so với các NCS trong khối KHTN-CN.

Ở Việt Nam hiện nay có xu hướng ngược lại, số NCS trong khối KH XHNV, Kinh tế luật nhiều khoảng gấp 4 lần khối KHTN-CN và cũng thường kết thúc luận án đúng hạn nhanh và nhiều hơn khối KHTN-CN.

Vì vậy, việc nâng cao chất lượng và tiêu chí GS, PGS với cả các ngành thuộc khối XHNV, KT, Luật,…theo tôi là cần thiết.

GS, PGS phải viết sách và hướng dẫn nghiên cứu sinh

Theo một số ý kiến, dự thảo yêu cầu ứng viên GS, PGS phải là tác giả chính hoặc chủ biên ít nhất 1 cuốn sách phục vụ đào tạo là hoàn toàn không phù hợp. GS nghĩ sao?

Trước hết phải khẳng định chức danh GS và PGS phải được gắn với hoạt động đào tạo đại học và sau đại học. Công bố quốc tế là một tiêu chí quan trọng nhất và là tiêu chí hàng đầu, trước tiên để khẳng định trình độ và năng lực khoa học của GS,PGS, nhưng chỉ là điều kiện cần.

Nếu chỉ cần có nhiều bài báo quốc tế là có thể phong chức danh GS và PGS mà thiếu sách giáo trình, thiếu sách chuyên khảo (đương nhiên phải là sách được hội đồng khoa học thẩm định chất lượng và phải được sử dụng thực tế phục vụ đào tạo đại học và sau đại học) và thiếu hướng dẫn NCS, tôi cho là chưa đủ.

Vì GS và PGS không chỉ là nhà khoa học, mà còn là người Thầy. Cho ra đời một quyển sách chuyên môn có chất lượng là công việc rất vất vả và công phu, nhiều khi kéo dài tới vài năm.

Nhiều GS nổi tiếng trên thế giới không chỉ có các bài báo khoa học xuất sắc, mà còn có những cuốn sách để đời, làm nền tảng cho một trường phái, ngành khoa học mới.

Công bố quốc tế mới chứng minh năng lực nghiên cứu khoa học, còn để trở thành một người Thầy cần tích lũy được kinh nghiệm sư phạm, cần có thời gian rèn giũa và khẳng định trong môi trường giáo dục đào tạo đại học và sau đại học, và điều này được vi phân thành các kết quả qua năm tháng tích lũy bằng việc xuất bản sách giáo trình, sách chuyên khảo có giá trị và đào tạo, hướng dẫn thành công nhiều NCS.

Có thể đâu đó GS không cần có sách, nhưng cá nhân tôi ra nước ngoài chưa gặp GS nào lại không có sách xuất bản và không hướng dẫn NCS.

GS công bố các ý tưởng mới, kết quả nghiên cứu mới thông qua các bài báo trên các tạp chí khoa học, và hệ thống hóa trí thức bằng sách để phục vụ đào tạo và nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu sinh để truyền nghề, truyền dạy phương pháp nghiên cứu và phát triển trí thức mới, xây dựng nhóm nghiên cứu.

Tôi cho rằng với chức danh GS, bên cạnh các bài báo, muốn khẳng định uy tín và thương hiệu của mình, xây dựng được trường phái học thuật rất cần phải có nhiều sách chuyên khảo có giá trị và hướng dẫn nhiều NCS bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.

Do vậy, chất lượng của các thành viên hội đồng xét GS, PGS lại càng là yếu tố quan trọng và cũng phải xem xét đầy đủ trên các tiêu chí đó. Công bố quốc tế là tiêu chí hàng đầu, quan trọng nhất, nhưng hội đồng xét đề tài khác với hội đồng xét GS, PGS.

Nếu chỉ coi trọng yếu tố công bố quốc tế mà không xem xét đến quá trình và thành tích trong đào tạo và hướng dẫn NCS, theo tôi cũng không hoàn toàn phù hợp với hội đồng chức danh GS và PGS.

Một vấn đề quan trọng nữa là dự thảo vẫn giữ quy định muốn được công nhận GS, ứng viên phải hướng dẫn chính nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, ý kiến của GS như thế nào?

Ở một số nước, việc PGS, GS hướng dẫn NCS được xem là đương nhiên và vì vậy họ không đưa vào tiêu chí bắt buộc là vì thế.

Với Việt Nam, quy định về sách và hướng dẫn NCS với các GS, PGS là cần thiết và cũng là theo thông lệ của nhiều nước tiên tiến trên thế giới.

Ngay cả ở một số nước tiên tiến như Nhật bản, UK (nơi mà tôi có nhiều quan hệ hợp tác thường xuyên), một TS trẻ có nhiều công bố quốc tế xuất sắc có thể chưa hẳn đã được giao hướng dẫn độc lập NCS.

Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây không phải ai có học hàm học vị cũng được giao hướng dẫn NCS, mà phải là các GS, PGS giỏi, có nhiều kinh nghiệm và uy tín khoa học cao, chính vì vậy đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò là TS xuất sắc và thực tài.

Với Việt Nam, GS, PGS được quy định là chức danh của các nhà giáo, gắn với sự nghiệp giáo dục đào tạo đại học và sau đại học, vì vậy những quy định của Hội đồng chức danh GSNN về sách, thâm niên và hướng dẫn NCS bên cạnh các yêu cầu về công bố quốc tế, tôi cho là rất cần thiết và quan trọng.

GS, PGS là những người Thầy gắn với sự nghiệp trồng người. Do đó, các tiêu chí đòi hỏi về khả năng nghiên cứu độc lập, mở các hướng nghiên cứu mới và khả năng tổ chức, triển khai dẫn dắt các hoạt động nghiên cứu khoa học, các nhóm nghiên cứu, cũng như đòi hỏi có thâm niên và kinh nghiệm nhất định trong giảng dạy, đào tạo đại học, sau đại học, đóng góp với việc phát triển của ngành và uy tín trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước là những tiêu chí cũng không kém phần quan trọng với GS và PGS.

Đãi ngộ xứng đáng để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh thật giả không thể lẫn lộn

Được biết, một số trường đại học danh tiếng trên thế giới khi xét tiêu chí để phong và bổ nhiệm GS, PGS còn xem xét khả năng họ đã đấu thầu, có được bao nhiêu đề tài, dự án, mang về cho nhà trường được những nguồn lợi nào về kinh tế. Không có đề tài, dự án sẽ không có nguồn kinh phí để hướng dẫn NCS, sẽ không phát triển được nhóm nghiên cứu của mình và do vậy cũng không thể trở thành các PGS, GS. Đây cũng là động lực để đội ngũ trí thức không ngừng vận động, gắn đào tạo và nghiên cứu với việc giải quyết những vấn đề của doanh nghiệp, quốc kế dân sinh. Theo GS, chúng ta có nên áp thêm tiêu chí này?

Đúng như vậy, năng lực và uy tín của GS, PGS không chỉ cần được khẳng định trong nghiên cứu, đào tạo, mà còn được nhiều trường đại học trên thế giới đánh giá bằng khả năng thu hút các đề tài, dự án nghiên cứu hoặc chuyển giao công nghệ. Tôi cho rằng đây cũng là xu thế, đòi hỏi tất yếu với đội ngũ trí thức của Việt Nam trong tương lai.

Nhân đây, tôi cũng muốn gửi gắm thông điệp là chúng ta đã bàn thảo nhiều và đang nghiên cứu để ban hành tiêu chí theo hướng nâng cao đòi hỏi về chất lượng với đội ngũ GS và PGS, nhưng chưa có những chính sách quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm một cách thỏa đáng hơn với đội ngũ này.

Theo tôi, cốt lõi là vấn đề sử dụng và trọng dụng. Chúng ta phải có chính sách sử dụng và đãi ngộ xứng đáng đội ngũ trí thức thực tài, tinh hoa của đất nước.

Thông lệ quốc tế từ TS đến PGS, từ PGS đến GS là những khoảng cách khá xa về tiêu chí, trình độ, năng lực và cống hiến và cũng khác xa nhau về chế độ đãi ngộ.

Do vậy, sử dụng và đãi ngộ xứng đáng, theo đúng tài năng, không cào bằng sẽ là giải pháp sâu xa và bền vững để nâng cao chất lượng GS, PGS. Trên cơ sở đãi ngộ xứng đáng, đội ngũ trí thức sẽ tự rèn luyện, tự phấn đấu, và cũng sẽ tự đào thải, có cạnh tranh lành mạnh, thật giả không thể lẫn lộn và không có chỗ cho thói hư danh.

Chúng ta đòi hỏi chất lượng theo chuẩn mực quốc tế, thì cũng cần sớm có những chính sách đổi mới và phù hợp hơn nữa, theo chuẩn mực quốc tế trong việc sử dụng và đãi ngộ với các GS và PGS.

Hồng Hạnh.

Google duo duo is a one-to-one video calling app https://essaydragon.com/ for everyone.

windows 7 enterprise kaufen

GS Nguyễn Đình Đức: Nâng chuẩn GS, PGS để loại thói hư danh

Tuổi trẻ 31.3.2017:   Với hệ thống tiêu chuẩn cũ, chưa từng xét đến tiêu chí công bố quốc tế, nhiều người cho rằng Việt Nam đã không chịu hội nhập và tự cho mình quyền ngoại lệ quá lâu trong đánh giá và công nhận các chức danh khoa học.

Tuy nhiên, thực tế việc xét và công nhận đạt chuẩn cũng như bổ nhiệm chức danh giáo sư (GS) và phó giáo sư (PGS) đã dựa trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của quốc tế và có áp dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế trong nước.

Không ít GS, PGS được bổ nhiệm thời gian qua rất xứng đáng và không hề thua kém các GS, PGS của nước ngoài. Song phải thừa nhận là mặt bằng chung các tiêu chuẩn chức danh GS, PGS của Việt Nam còn thấp so với tiêu chuẩn GS, PGS của các nước tiến tiến.

Vì vậy, việc Bộ GD-ĐT, Hội đồng chức danh GS Nhà nước nghiên cứu để đổi mới, nâng cao các tiêu chuẩn với GS, PGS như hiện nay là rất cần thiết và kịp thời.

Bộ GD-ĐT đã có lộ trình áp dụng yêu cầu tiến sĩ phải có công bố quốc tế. Vì vậy, việc yêu cầu có các công bố quốc tế trên các tạp chí có uy tín với GS, PGS là cần thiết. Đó là một trong những tiêu chí tiên quyết để nâng cao chất lượng đội ngũ người thầy.

Để đạt được các tiêu chí như GS, PGS các nước tiên tiến cũng cần có lộ trình phù hợp. Tuy nhiên, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, thủ tục miễn nhiệm chức danh GS, PGS đặt yêu cầu đến năm 2019, tùy theo từng nhóm ngành, ứng viên GS phải là tác giả chính và đã công bố được ít nhất 1-2 bài báo trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI, Scopus. Các tiêu chí như vậy còn rất thấp so với chuẩn quốc tế, nên tốt nhất áp dụng luôn từ năm 2017 khi quy định mới chính thức có hiệu lực.

Chúng ta sẽ phải chấp nhận có thể có ngành năm nay, năm sau, vài năm sau không có GS, không có PGS. Song đó chính là động lực mạnh mẽ để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ĐH và là cú hích cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục ĐH của Việt Nam. Đây cũng là giải pháp để giảm bớt quy mô đào tạo tiến sĩ, ngăn tình trạng đào tạo tiến sĩ nhiều ào ạt như hiện nay.

Có điều đã đòi hỏi chất lượng theo chuẩn mực quốc tế thì cũng cần sớm có những chính sách đổi mới và phù hợp hơn nữa – theo chuẩn mực quốc tế – trong việc sử dụng và đãi ngộ nhà khoa học. Thông lệ quốc tế từ tiến sĩ đến PGS, từ PGS đến GS là những khoảng cách khá xa về tiêu chí, trình độ, năng lực, cống hiến và cũng khác xa nhau về chế độ đãi ngộ. Trên cơ sở đãi ngộ xứng đáng, đội ngũ trí thức sẽ tự rèn luyện, tự phấn đấu và cũng sẽ tự đào thải.

Có người hỏi tôi nhìn nhận thế nào về việc ở nhiều nước tiên tiến, chức vụ của GS, PGS chỉ liên quan tới trường ĐH, chứ không hề phong danh học hàm cho những người không gắn bó trực tiếp hằng ngày với môi trường giáo dục. Tại sao Việt Nam lại phổ biến việc người làm công tác quản lý bên ngoài cơ sở giáo dục ĐH vẫn mang chức danh GS, PGS?

Theo tôi, đội ngũ trí thức có trình độ cao – nòng cốt là các GS và PGS – là tinh hoa của giáo dục ĐH, không dễ gì ngày một, ngày hai đào tạo được ngay, nên cần được tận dụng tối đa. Ví dụ một GS, PGS ngành luật am hiểu chuyên môn, nhiều kinh nghiệm trong đào tạo và nghề nghiệp được điều chuyển từ trường ĐH lên làm công tác quản lý các cơ quan như Bộ Tư pháp, Quốc hội…, lẽ nào chúng ta lại tước đi danh học hàm GS và PGS, không mời họ giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh?

Một GS, PGS giỏi chuyên môn, đã kinh qua quản lý ở cơ sở đào tạo, nay lên làm quản lý cấp bộ nhưng vẫn tham gia giảng dạy ĐH và sau ĐH là quá tốt. Tuy nhiên, nếu ngược lại chỉ làm quản lý thuần túy, không có trình độ và kiến thức chuyên môn sâu, lại vẫn chuộng hư danh, lấy học hàm GS, PGS cho oai, không thực chất là điều không nên.

Dư luận cho rằng thời gian vừa qua chuẩn GS, PGS thấp có phần có rào cản từ những chuyện như vậy. Do đó, việc nâng cao chuẩn GS, PGS từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế sẽ là biện pháp quan trọng để loại bỏ thói hư danh như trên.

GS.TSKH NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC
 (ĐH QUỐC GIA Hà Nội) – NGỌC HÀ ghi

Much like this contact form. with s lar, you can swipe your finger to see what is coming up over the next few hours and the radar view it offers is stunning.

Trường Đại học Công nghệ 2017 tuyển sinh ngành mới: Kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng-Giao thông

(Dân trí ngày 20.2.2017): GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban đào tạo – ĐHQGHN cho biết , chương trình kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường Đại học công nghệ có tính đặc thù và dựa trên thế mạnh của nhà trường với điểm mới là cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ ngành kỹ sư giao thông và xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực infrastructure và Civil Engineering là University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc). Theo đó kỹ sư ra trường có thể áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã được trang bị để giải quyết các vấn đề liên quan đến: giao thông, xây dựng, quy hoạch và quản lý các dự án, duy tu bảo trì các công trình.

Đồng thời, chương trình phát huy thế mạnh liên ngành của trường ĐHCN là công nghệ thông tin, điện tử và vi cơ điện tử, vật lý kỹ thuật, cơ học kỹ thuật, Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trong chương trình đào tạo.

Ngoài ra, chương trình có có sự tận dụng được quan hệ với chương trình thạc sỹ kỹ thuật của trường Đại học Việt Nhật và các doanh nghiệp của Nhật bản tại Việt nam trong lĩnh vực này.

Điểm nổi bật nhất của chương trình là có những học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức hoàn toàn mới về giao thông và xây dựng gắn với phát triển bền vững, quy hoạch vùng và lãnh thổ bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu…

Năm 2017, trường ĐH Công nghệ tuyển 100 chỉ tiêu cho ngành học mới này. Tuyển sinh theo nhóm ngành, cùng với ngành Cơ học Kỹ thuật.

Nhật Hồng

 

Tagung der zu dieser Web-Seite gehen sektion baden-wrttemberg der deutschen gesellschaft fr ernhrung e.

a

Phỏng vấn GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo: Những điểm mới trong tuyển sinh đại học chính quy 2017 của ĐHQGHN

GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức cung cấp nội dung một số điểm mới được áp dụng trong năm 2017

Năm 2017, ĐHQGHN quyết định không tổ chức kì thi đánh giá năng lực như 2 năm trước, mà sử dụng kết quả các bài thi THPT quốc gia phục vụ công tác xét tuyển bậc đại học. Có những điểm mới nào trong kỳ thi tuyển sinh ĐH chính quy năm 2017 của ĐHQGHN? Cổng thông tin điện tử ĐHQGHN đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN về những thay đổi trong công tác tuyển sinh đại học năm 2017 của ĐHQGHN.

Năm 2017, ĐHQGHN tuyển sinh 7.345 chỉ tiêu với 99 ngành/CTĐT bậc đại học thuộc lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội, Kinh tế, Quản trị Kinh doanh, Luật học, Y – Dược, trong đó có 5 ngành mới là: Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông (100 chỉ tiêu), Kỹ thuật máy tính (60 chỉ tiêu), Công nghệ thông tin định hướng thị trường Nhật Bản (50 chỉ tiêu) của Trường ĐH Công nghệ, ngành Sư phạm tiếng Hàn của Trường ĐH Ngoại ngữ và ngành Răng – Hàm – Mặt của Khoa Y Dược (CTĐT CLC theo đặc thù đơn vị) và 3 chương trình đào tạo chất lượng cao có học phí tính đủ chi phí đào tạo (đáp ứng Thông tư 23/2014 của Bộ GD&ĐT) là: Công nghệ kỹ thuật hoá học (40 chỉ tiêu), Công nghệ sinh học (40 chỉ tiêu) của Trường ĐH Khoa học tự nhiên và Tài chính Ngân hàng (60 chỉ tiêu) của Trường ĐH Kinh tế.

Năm 2017, ĐHQGHN xét tuyển theo 3 hình thức:

1. Thí sinh có kết quả kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 đạt ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào do ĐHQGHN quy định. Đồng thời, ĐHQGHN sử dụng 56 tổ hợp để xét tuyển vào đại học chính quy, trong đó: 10 tổ hợp môn theo khối thi truyền thống và 46 tổ hợp môn theo khối thi mới. Đối với các khối thi mới, các đơn vị đào tạothuộc ĐHQGHN đặc biệt chú trọng sử dụng bài thi ngoại ngữ để tổ hợp xét tuyển nhằm đảm bảo năng lực ngoại ngữ cần thiết giúp thí sinh theo học tốt các chương trình đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra tương ứng quốc tế.

2. Thí sinh có kết quả thi ĐGNL còn hạn sử dụng đạt từ 70,00/140,00 điểm trở lên và chưa nhập học vào bất kỳ đơn vị đào tạo nào của ĐHQGHN

3. Thí sinh có chứng chỉ quốc tế của Trung tâm Khảo thí ĐH Cambridge, Anh (Cambridge International Examinations A-Level, UK). Thí sinh sử dụng chứng chỉ A-Level với tổ hợp kết quả 3 môn thi theo các khối thi quy định của ngành đào tạo tương ứng. Mức điểm mỗi môn thi đạt từ 60/100 điểm trở lên (tương ứng điểm C, PUM range ≥ 60) mới đủ điều kiện đăng ký để xét tuyển.

Chính sách ưu tiên trong tuyển sinh

1. Chính sách ưu tiên theo đối tượng, theo khu vực, các đối tượng được xét tuyển thẳng và ưu tiên xét tuyển thực hiện theo Quy chế tuyển sinh của Bộ GD&ĐT.

2. Học sinh THPT chuyên thuộc ĐHQGHN được xét tuyển thẳng và xét tuyển vào bậc đại học tại ĐHQGHN phải tốt nghiệp THPT, có hạnh kiểm 3 năm học THPT đạt loại Tốt và đáp ứng một trong các tiêu chí sau:

– Là thành viên chính thức đội tuyển dự kỳ thi Olympic hoặc các cuộc thi sáng tạo, triển lãm khoa học kỹ thuật khu vực, quốc tế;

– Đạt giải chính thức trong kỳ thi chọn học sinh giỏi bậc THPT cấp ĐHQGHN;

– Đạt giải chính thức trong kỳ thi Olympic chuyên Khoa học tự nhiên bậc THPT được tổ chức hàng năm;

– Là thành viên chính thức của đội tuyển tham dự kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia hoặc các cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc gia;

– Đạt danh hiệu học sinh giỏi từng năm học trong cả 3 năm THPT chuyên và có tổng điểm 4 môn thi tốt nghiệp THPT đạt tối thiểu 32,0 điểm trong đó không có điểm môn thi tốt nghiệp THPT dưới 6,0 điểm;

Học sinh đạt một trong các tiêu chí trên trong các năm học ở bậc THPT được bảo lưu kết quả khi xét tuyển thẳng và xét tuyển vào bậc đại học tại ĐHQGHN.

3. Học sinh một số trường THPT chuyên không thuộc ĐHQGHN được đăng ký xét tuyển thẳng và xét tuyển vào bậc đại học ở các đơn vị đào tạo của ĐHQGHN nếu đáp ứng các yêu cầu như đối với học sinh THPT chuyên thuộc ĐHQGHN và phải đáp ứng các tiêu chí sau:

– Học sinh thuộc trường THPT chuyên có trong danh sách các trường THPT chuyên được ĐHQGHN dành chỉ tiêu tuyển thẳng.

– Học sinh có tên trong danh sách xếp theo thứ tự ưu tiên kèm theo hồ sơ và công văn của Hiệu trưởng trường THPT chuyên đề nghị các đơn vị đào tạo trong ĐHQGHN xét tuyển thẳng.

4. HĐTS các đơn vị xây dựng quy định cụ thể về xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển theo Quy chế tuyển sinh, bao gồm: ngành thí sinh được xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển tương ứng với loại giải và môn thi của thí sinh đoạt giải hoặc môn chuyên của thí sinh (các đơn vị có thể bổ sung thêm các ngành đúng và ngành gần đối với từng môn thi học sinh giỏi quốc gia hoặc môn chuyên phù hợp với yêu cầu đầu vào của các ngành đào tạo), chỉ tiêu cho từng ngành, quy trình xét và công bố công khai trên trang thông tin của đơn vị, của ĐHQGHN và các phương tiện thông tin đại chúng trước ngày 28/4/2017.

Theo tin VNU, Hanoi.

Google text to speech read the text on your buy essay online by https://justbuyessay.com/ screen aloud.

Phim phóng sự trên truyền hình thông tấn VTC: PTN made in Vietnam của GS Nguyễn Đình Đức vươn tầm quốc tế

Phim phóng sự trên truyền hình thông tấn VTC: PTN made in Vietnam của GS Nguyễn Đình Đức vươn tầm quốc tế

PTN made in Vietnam của GS Nguyễn Đình Đức vươn tầm quốc tế

Nguồn:  vnews.gov.vn

Chrome https://order-essay-online.net remote desktop securely access your computers from your android device.

PTN của GS Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN: Vươn tầm quốc tế

Đầu xuân, trân trọng giới thiệu bài viết về PTN Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến của Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN đăng trên Dân trí ngày 3 Tết Đinh Dậu – 30.1.2017 . Bài báo  phản ánh chân thực quá trình xây dựng và trưởng thành của nhóm nghiên cứu (NNC) và PTN. Thầy và trò đã có những năm tháng khởi đầu vất vả với biết bao khó khăn mới gây dựng được PTN như ngày hôm nay: 

Hiện nay, tại các trường đại học ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, bộ môn là mô hình tổ chức cấp cơ sở triển khai đào tạo giáo dục bậc đại học, sau đại học phổ biến.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại mô hình bộ môn và phòng thí nghiệm được hòa nhập “hai trong một” của các trường đại học nghiên cứu tiên tiến ở một số nước, tiêu biểu là Nhật Bản. Thực tế ở Việt Nam cũng đã chứng minh, mô hình Phòng thí nghiệm (PTN) kết hợp đào tạo với nghiên cứu là mô hình mới, ưu việt.

Nhiều học trò thành danh từ Phòng thí nghiệm và Nhóm nghiên cứu của GS. Nguyễn Đình Đức

Vừa qua, mô hình PTN nêu trên đã xuất hiện ở Việt Nam. Tại trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến đã được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sáng lập. Sự hình thành và phát triển của PTN này có thể là bài học kinh nghiệm để nhân rộng ở các trường đại học khác của Việt Nam.

adıyaman escort
afyon escort
ağrı escort
amasya escort
antalya escort
aksu escort
alanya escort
döşemealtı escort
elmalı escort
finike escort
kaş escort
kemer escort
kepez escort
konyaaltı escort
korkuteli escort
kumluca escort
manavgat escort
muratpaşa escort
serik escort
antep escort
ardahan escort
artvin escort
aydın escort
didim escort
kuşadası escort
nazilli escort
balıkesir escort
bartın escort
batman escort
bayburt escort
bilecik escort
bingöl escort
bitlis escort
bolu escort
burdur escort
bursa escort
çanakkale escort
çankırı escort
corum escort
denizli escort
diyarbakır escort
düzce escort
elazığ escort
erzincan escort
erzurum escort
eskişehir escort
giresun escort
hakkari escort
hatay escort
antakya escort
ığdır escort
ısparta escort
istanbul escort
anadolu yakası escort
avrupa yakası escort
izmir escort
alsancak escort
bornova escort
buca escort
çesme escort
karşıyaka escort
menemen escort
ödemis escort
torbalı escort
urla escort
karaman escort
kars escort
kıbrıs escort
kırıkkale escort
kırklareli escort
kırşehir escort
kocaeli escort
gebze escort
izmit escort
konya escort
kütahya escort
malatya escort
manisa escort
maraş escort
mardin escort
mersin escort
muğla escort
bodrum escort
dalaman escort
datca escort
fethiye escort
köycegiz escort
marmaris escort
menteşe escort
milas escort
seydikemer escort
yatağan escort
muş escort
nevşehir escort
osmaniye escort
rize escort
sakarya escort
samsun escort
19 mayıs escort
atakum escort
çarşamba escort
ilkadım escort
vezirköprü escort
siirt escort
sivas escort
şırnak escort
tekirdağ escort
çorlu escort
trabzon escort
tunceli escort
urfa escort
uşak escort
van escort
yalova escort
yozgat escort

Con đường đến với thành công thường không dễ dàng. Ban đầu, nhóm nghiên cứu chỉ có Thầy và một vài học trò. Nhưng là người thầy tận tụy và tâm huyết với nghề, GS Nguyễn Đình Đức không chỉ có những bài giảng hay với chuyên môn sâu mà quan trọng hơn, ông đã “thắp lên” ngọn lửa đam mê khoa học, tình yêu ngành nghề ở các học trò của mình, khơi dậy tiềm năng sáng tạo ở các bạn trẻ.

Thầy trò cùng nhau cố gắng nỗ lực, miệt mài nghiên cứu. Cuối cùng, kết quả cũng đã được đền đáp. Những bài báo được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín ngày một nhiều. Đây là nguồn cổ vũ động viên lớn lao đối với Thầy và trò, khích lệ và khơi gợi niềm đam mê nghiên cứu khoa học cho những sinh viên khác.

Trên cơ sở đó, học trò đến với ông nhiều hơn, nhóm nghiên cứu ngày một đông dần lên. Được Thầy tận tình dìu dắt, nhiều em sinh viên trước đây học lực chỉ đạt mức trung bình hoặc khá, nhưng được rèn luyện trong nhóm nghiên cứu, đã trở nên say mê học tập nghiên cứu và sau khi tốt nghiệp đại học đều trở thành sinh viên giỏi và xuất sắc.

Đến nay, nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức đã lớn mạnh, không chỉ có đông đảo đội ngũ sinh viên, nghiên cứu sinh (NCS) mà còn có nhiều tiến sỹ trẻ tham gia. Hầu hết các sinh viên trong nhóm nghiên cứu khi tốt nghiệp đại học, trở thành các kỹ sư giỏi, đều có kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín.

Một số học trò thành đạt của ông có thể kể đến như NCS Trần Quốc Quân (SN 1991), chuyển tiếp nghiên cứu sinh (nay đang thực tập tại Vương quốc Anh) có 15 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI; Phạm Hồng Công (SN 1992), có 18 bài báo ISI; Phạm Toàn Thắng (SN 1991), khi tốt nghiệp đại học ra trường đã có 5 bài báo ISI (hiện nay đang làm NCS tại Hàn Quốc);

Vũ Thị Thùy Anh (đang làm NCS, đã có 7 bài ISI); Hoàng Văn Tùng (khi bảo vệ luận án tiến sỹ từ năm 2010 đã có 5 bài ISI)… Một số sinh viên khác cũng có kết quả công bố chung với thầy trên các tạp chí quốc tế ISI như: Vũ Đình Quang, Vũ Minh Anh, Nguyễn Văn Quyền, Trần Văn Anh, Vũ Đình Luật, Hoàng Văn Tác, Nguyễn Trọng Đạo, Ngô Tất Đạt, Phạm Thị Ngọc Ân,…; đặc biệt, có em tuổi đời còn rất trẻ, mới học hết năm thứ 3 như Phạm Đình Nguyện….Phần lớn các học trò trong nhóm nghiên cứu của GS Đức đều là các em ở các tỉnh xa, nhà nghèo; trong số đó, có những em hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn. Điều đáng trân trọng và khâm phục là thầy và trò đều công bố quốc tế với nội lực 100% made in Việt Nam, trong điều kiện lúc đầu thiếu thốn về kinh phí, CSVC, PTN.

Trên cơ sở nhóm nghiên cứu, năm 2015, Trường Đại học Công nghệ đã thành lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến. Đây là sự kết hợp của hai mô hình: tổ bộ môn (đào tạo đầy đủ các bậc từ kỹ sư, thạc sỹ đến tiến sỹ) và mô hình PTN (triển khai các nghiên cứu khoa học với các thiết bị hiện đại); đồng thời bổ nhiệm GS .TSKH Nguyễn Đình Đức làm Giám đốc PTN.

Hiện nay, PTN đã xây dựng xong chương trình đào tạo và đang tiến hành triển khai đào tạo hệ kỹ sư theo chuyên ngành này trong ngành Cơ học Kỹ thuật với quy mô khoảng 20 sinh viên/năm, đồng thời, đào tạo bậc thạc sỹ và tiến sỹ trong lĩnh vực Cơ học Kỹ thuật. Bên cạnh đó, PTN cũng thu hút hàng chục học viên cao học và nghiên cứu sinh từ khắp mọi miền của của đất nước đến sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu và học tập.

Từ mô hình nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức có thể rút ra bài học: để một nhóm nghiên cứu thành công, trước tiên là phải có những người thầy tài năng và tâm huyết dẫn dắt, hai là phải bắt nhịp được theo các nghiên cứu tiên tiến, hiện đại của thế giới. Ba là phải có môi trường đào tạo và nghiên cứu có hàm lượng học thuật cao như ĐHQGHN và bốn là cần khơi dậy được hoài bão và sự say mê nghiên cứu khoa học của các bạn trẻ. Đây là 4 yếu tố trước tiên và quan trọng nhất làm nên thành công của nhóm nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu và Phòng thí nghiệm của GS Nguyễn Đình Đức – Nơi đào tạo những tài năng trẻ

GS Nguyễn Đình Đức cho biết, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của nhóm nghiên cứu này là các lĩnh vực: composite, vật liệu chức năng và vật liệu nano.

Hiện nay, PTN cũng là cơ sở nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực kết cấu tiên tiến chế tạo từ các vật liệu chức năng có vết nứt, vật liệu nano ứng dụng làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời, vật liệu áp điện có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ), các vật liệu mới composite có tính chất đặc biệt sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt. Từ đó đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở ĐHQGHN do GS. Nguyễn Đình Đức đứng đầu.

Như vậy, từ một nhóm nghiên cứu rất sơ khai ban đầu, chỉ trong thời gian từ 2010 đến nay, GS Đức đã xây dựng nên một PTN hiện đại theo mô hình mới ở Việt Nam, vừa đào tạo kết hợp với nghiên cứu khoa học. Bằng sự kiên trì bền bỉ, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự phấn đấu nỗ lực, quên mình, Thầy và trò trong PTN đã vững vàng, tự tin vươn lên tầm quốc tế từ nội lực.

PTN của GS Đức đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong nghiên cứu và góp phần phục vụ thiết thực cho cuộc sống hiện tại, thể hiện qua những bài báo, bằng phát minh, sáng chế. Các thành viên của PTN đã công bố hơn 100 bài báo khoa học có giá trị cao trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín, một số sách chuyên khảo xuất bản bằng tiếng Nga, tiếng Anh, sở hữu 1 bằng phát minh, 2 bằng sáng chế.

Ngoài ra, đây cũng là nơi đào tạo ra nhiều tài năng trẻ, những chuyên gia có trình độ cao thuộc lĩnh vực này. Từ thành công trên, nghiên cứu sinh Trần Quốc Quân của PTN đã vinh dự là một trong 3 nhà khoa học trẻ tài năng (và là người trẻ nhất, khi còn chưa có bằng tiến sỹ) từ trước đến nay được nhận giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học mang tên Nguyễn Văn Đạo.

Đến nay, PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến đã được cộng đồng khoa học trong và ngoài nước biết đến và là niềm tự hào của Trường Đại học Công nghệ và Đại học Quốc gia Hà Nội. GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN cũng đã được mời tham gia vào hội đồng biên tập của nhiều tạp chí khoa học ở trong và ngoài nước, và được mời làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho 40 tạp chí ISI có uy tín của quốc tế.

Phòng thí nghiệm đã và đang có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các nhà PTN và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,….như Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Melbourne(Úc), Đại học Birmingham (UK),…và đã thu hút được nhiều tiến sỹ trẻ của các trường đại học lớn ở trong nước như Đại học Công nghệ, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Việt Nhật, Học Viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Giao thông vận tải,….cùng tham gia hợp tác nghiên cứu và đào tạo.

Sự thành công của mô hình PTN này đã cho thấy sức mạnh ưu việt trong công tác đào tạo sinh viên, NCS kết hợp với nghiên cứu khoa học để tạo ra nhiều nhân tài trẻ tuổi cho đất nước. Những trí thức trẻ được đào tạo và trưởng thành trong các PTN made in Việt Nam 100% như vậy sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao, và chính là những nhân tố mới đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Mỗi năm công bố 10-15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín

GS Nguyễn Đình Đức cho biết, bên cạnh các hướng nghiên cứu hiện nay, chiến lược phát triển của PTN trong những năm tới đây là đi vào 3 lĩnh vực nghiên cứu hiện đại và gắn với phục vụ thực tiễn là: Civil Engineering (liên quan đến tính toán vật liệu và kết cấu cho các công trình giao thông, xây dựng và kỹ thuật hạ tầng); năng lượng mới; biến đổi khí hậu (tính toán dự báo mưa, lũ và các giải pháp thiết kế, thi công các công trình hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu).

Mô hình xây dựng và trưởng thành bằng nội lực trong nước, từng bước chắc chắn, phát triển dần từ nhóm nghiên cứu đến thành lập tổ chức PTN, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, gắn nghiên cứu với thực tiễn như PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến ở Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN là mô hình mới, rất hay, hiện đại, hiệu quả, rất phù hợp với các trường đại học nghiên cứu ở Việt Nam.

Những năm gần đây, PTN và nhóm nghiên cứu này mỗi năm công bố 10-15 bài báo trên các tạp chí ISI có uy tín, kết quả nghiên cứu được mời báo cáo tại các hội nghị quốc tế lớn, có thể thấy với kết quả và uy tín như vậy không thua kém các nhóm nghiên cứu mạnh của quốc tế.

Với sự ủng hộ và quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo ĐHQGHN và trường Đại học Công nghệ, những năm tới PTN chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đào tạo được nhiều nhân tài hơn nữa cho đất nước.

Nhật Hồng

Bauernhfe als auerschulischer lernort im fokus kassel kassel university press / barleben docupoint frderung https://www.hausarbeithilfe.com/keine-angst-vor-der-bachelorarbeit/ experimenteller problemlsefhigkeit.

MÙA XUÂN – TUỔI TRẺ – TƯƠNG LAI

Trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, đăng trên Dân trí ngày mùng 2 Tết Đinh Dậu – 2017: ” Liệu thế hệ trẻ Việt Nam có vươn lên trở thành “con rồng” của châu Á và thế giới?”

GS. Nguyễn Đình Đức: “Việt Nam đứng trước nhiều vận hội và khó khăn thách thức”

Chúng ta đang sống giữa thời điểm cao trào của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra trên thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bùng nổ vào cuối thế kỷ XVIII, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước và năng lượng nước.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay đổi diện mạo nền công nghiệp thế giới với việc cơ giới hoá sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 nổ ra ở giai đoạn sau của thế kỷ XIX, khởi nguồn là sự bùng nổ của kỹ thuật điện, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng loạt.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 bắt đầu từ giữa thế kỷ XX, là thời điểm công nghệ thông tin bắt đầu bùng nổ nhanh chóng và quá trình sản xuất được tự động hóa dựa trên hệ thống quản lý máy tính, được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.

Sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong 15 năm đầu tiên của thế kỷ 21 với những phát minh, sáng chế mới và Internet… chính là những nền tảng then chốt tạo nên những cú huých của sự tăng trưởng và phát triển. Nhờ vậy năng suất lao động và của cải vật chất của toàn xã hội đã được tăng lên theo cấp số nhân. Tổng sản phẩm của thế giới năm 2015 ước đạt 74000 tỷ USD, đã tăng gấp 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 60 lần so với năm 1950.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được hình thành trên nền tảng thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng thứ 3, xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, tự động hóa – rô bốt, và InternetofThings (IoT).

Sự phát triển của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng lần thứ 4 này ở các nước phát triển đang bùng nổ mạnh mẽ, với phạm vi ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, sẽ phát triển và lan truyền với tốc độ chưa từng có tiền lệ so với ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây. Đó là những yếu tố kỹ thuật và công nghệ định dạng một thế giới hiện đại trong những thập niên tới.

Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với rất nhiều vận hội và khó khăn thách thức. Mỹ, Anh,… và các nước công nghiệp phát triển đã tận dụng và nắm bắt được cơ hội ngay từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2.

Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,… đã nắm bắt được cơ hội ở cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Vậy một vấn đề đặt ra là: liệu Việt Nam có tận dụng và nắm bắt được cơ hội ở cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để vươn lên thành “con rồng, con hổ” của châu Á và thế giới trong thế kỷ 21? Sứ mệnh này thuộc về thế hệ trẻ – tương lai của Việt Nam.


Từ trái qua phải: GS.TS Mai Trong Nhuận - Chủ tịch Hội đồng Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐHQGHN, GS.TSKH Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo của ĐHQGHN, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và GS.TS Furuta (Hiệu trưởng ĐH Việt Nhật)

Từ trái qua phải: GS.TS Mai Trong Nhuận – Chủ tịch Hội đồng Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐHQGHN, GS.TSKH Vũ Minh Giang – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo của ĐHQGHN, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và GS.TS Furuta (Hiệu trưởng ĐH Việt Nhật)

GS. Nguyễn Đình Đức: “Khoa học và Công nghệ – chiếc đũa thần để đưa dân tộc ta theo kịp và sánh vai các nước trên thế giới”

Sứ mạng của các thế hệ lớn tuổi đã làm nên những kỳ tích hào hùng trong chiến tranh để đất nước được hòa bình và thống nhất. Còn sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, đưa Việt Nam lên những tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc năm châu là sứ mệnh vẻ vang của thế hệ trẻ, của các nhà khoa học trẻ hôm nay và mai sau.

Bên cạnh đội ngũ trí thức đầu ngành, đầu đàn được đào tạo bài bản ở các nước XHCN trước đây, chúng ta đang có một kho báu về trí thức là các bạn trẻ được đào tạo và tích lũy kiến thức, kinh nghiệm trong những năm đất nước đổi mới ở khắp năm châu, nhiệt thành, yêu nước và đang đồng hành cùng sự nghiệp kiến thiết đất nước. Theo số lượng thống kê (chưa đầy đủ), số lượng các tiến sỹ được đào tạo ở Việt Nam trong những năm đổi mới khoảng 20.000, trong đó khoảng 25% được đào tạo ở nước ngoài.

Riêng ở Đại học Quốc gia Hà Nội, với lực lượng đông đảo 67 GS, 370 PGS, 1096 TSKH và TS, trong đó có tới 54,29% tiến sỹ được đào tạo ở nước ngoài. Chỉ riêng năm 2016, ĐHQGHN đã có 315 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI, 15 sáng chế, giải pháp hữu ích, 15 sản phẩm KHCN chuyển giao khởi nghiệp (Nguồn: Báo cáo thường niên 2016 của ĐHQGHN). Trong thành tích ấy có sự đóng góp tham gia hết sức quan trọng của các nhà khoa học trẻ, các tiến sỹ trẻ, các nghiên cứu sinh của ĐHQGHN.

Cũng nhờ có nguồn lực đó, các nhà khoa học của ĐHQGHN đã hợp tác với quốc tế để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn của Việt Nam, và đã có kết quả công bố trên tạp chí Nature trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (2013) và lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (2016). Nature là một trong những tạp chí có uy tín hàng đầu thế giới, có chỉ số ảnh hưởng IF = 38. Các công trình khoa học công bố trên Tạp chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản xuất sắc, có tính đột phá, được đánh giá có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả xã hội.

Đặc điểm nổi bật nhất là từ những nguồn lực nêu trên, đã hình thành một thế hệ trí thức mới – thế hệ 9X, rất trẻ, được đào tạo bài bản ở Việt Nam, có hoài bão và có nhiều kết quả nghiên cứu tốt, không thua kém so với các bạn bè đang làm việc, nghiên cứu ở nước ngoài. Bằng chứng là các nghiên cứu sinh của PTN Vật Liệu và Kết cấu Tiên tiến của Trường Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội như Trần Quốc Quân SN 1990 đã có 15 bài báo quốc tế ISI, Phạm Hồng Công SN 1991 đã có 17 bài báo quốc tế ISI…

Bên cạnh đó, có thể kể đến nhiều nghiên cứu sinh, nhiều tiến sỹ trẻ khác của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN), Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh, Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP.Hồ Chí Minh), Đại học Tôn Đức Thắng,…được đào tạo hoàn toàn trong nước, nhưng cũng đã có nhiều công bố trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín.

Đó là xu thế phát triển và hội nhập, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế của khoa học Việt Nam, là thành quả của sự nghiệp giáo dục đại học của nước nhà trong những năm đổi mới vừa qua, và cũng là nhân tố nội lực mới trong sự phát triển.

Đội ngũ các nhà khoa học trẻ thực tài này chính là tiềm năng, là vốn quý của đất nước. Chúng ta cần tập hợp, tạo mọi điều kiện phát huy nguồn lực này để nắm bắt những cơ hội của thế giới trong tương lai.

Nếu không nắm bắt và tận dụng được các xu thế và vận hội của thời đại, không có sự chuẩn bị và chiến lược, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nếu không có những nhân tài xuất sắc, các trung tâm nghiên cứu chuyển giao KHCN xuất sắc và máy móc hiện đại, năng suất và hiệu quả lao động của chúng ta ngày càng thấp so với thế giới và chúng ta sẽ mãi mãi bị tụt hậu.

Những thập niên tới đây của thế kỷ 21 là thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với sự trợ giúp của Internet vạn vật IoT, tự động hóa trong sản xuất và cả trong quản lý, cùng với các vật liệu mới tiên tiến, thông minh và các công nghệ mới sẽ tạo ra những máy móc mới, thiết bị mới nhất với những năng lực thần kỳ mà trước đây chỉ có trong thần thoại.

Khoa học và Công nghệ là chiếc đũa thần để đưa dân tộc ta theo kịp và sánh vai các nước trên thế giới. Tuổi trẻ học tập để nắm vững kiến thức và khoa học công nghệ hiện đại, sẽ là chủ nhân của những chiếc đũa thần – là lớp người quyết định tương lai của dân tộc trong thế kỷ 21 và trong suốt lịch sử phát triển của đất nước.

Tục ngữ Việt Nam có câu “ Học thầy không tày học bạn”, “Học – hỏi” – tạm giải nghĩa là: học đi đôi với hỏi, học mà không có hỏi, chưa phải là học. Chúa Giêsu nói “ Khởi thủy là lời nói”. Đại thi hào Gơtơ nói “ Khởi thủy là hành động”. Bác Hồ kính yêu dạy chúng ta “ Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.

Phải chăng đó là những chỉ dẫn cho các bạn trẻ về phương pháp luận trong quá trình học tập, tiếp thu khoa học công nghệ để phục vụ công cuộc CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc Gia Hà Nội.

X untethered jailbreak for iphone, ipad and ipod touch, which has quickly become the most popular jailbreak in ios history.

Evdiz Evden Eve Nakliyat, the best house moving company in Istanbul, provides home, office and piece goods transportation services to all over Istanbul and Turkey. çekmeköy evden eve nakliyat , beykoz evden eve nakliyat , sancaktepe evden eve nakliyat , sultanbeyli evden eve nakliyat All of Turkey, especially its districts, are offered at affordable discounted prices.

Mong ước đầu xuân: Hy vọng nền giáo dục nước nhà sẽ tiếp tục đi lên mạnh mẽ

Nhân dịp đầu xuân Đinh Dâu, trên Dân trí sáng mùng 1 Tết đã đăng ý kiến  của các nhà khoa học, quản lý giáo dục gửi gắm tới nền giáo dục của nước nhà. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã có những gửi gắm như sau:

Những năm vừa qua sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và từng bước hội nhập với các chuẩn mực quốc tế. Cụ thể, đã có những điều chỉnh tích cực trong đổi mới tuyển sinh và triển khai hiệu quả việc kiểm định chất lượng tại các cơ sở giáo dục đại học.

Sang năm mới Đinh Dậu, tôi mong muốn việc đổi mới giáo dục đại học trước hết tập trung vào việc nâng cao chất lượng đào tạo tiến sỹ: chú trọng từ khâu tuyển đầu vào, quá trình đào tạo cho đến chuẩn đầu ra; thứ hai, là đổi mới các tiêu chuẩn xét duyệt và nâng cao chất lượng đội ngũ GS, PGS đồng thời có chế độ đãi ngộ tương xứng; thứ ba, là đẩy nhanh và mạnh hơn nữa việc kiểm định các chương trình đào tạo và các cơ sở giáo dục đại học; thứ tư là đổi mới chương trình đào tạo và nâng cao chất lượng và kỹ năng thực tế cho sinh viên đại học để khi ra trường có thể tìm ngay được việc làm và khởi nghiệp.

Và điều cuối cùng, tôi muốn gửi gắm tới thế hệ trẻ hãy tự trang bị cho mình một nền tảng tri thức khoa học và ngoại ngữ vững vàng, tự tin vào năng lực cá nhân, tích cực, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới.

Trong không khí rộn ràng của mùa xuân, tôi mong muốn mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là các nhà khoa học và các bạn trẻ, hãy nhận thức đầy đủ các cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, phát huy cao nhất sự chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của mình, chung tay góp sức nắm bắt những thời cơ và vận hội mà cuộc cách mạng này mang đến, đưa đất nước chúng ta được phồn vinh, tiến nhanh, tiến mạnh, đuổi kịp các nước tiên tiến và vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu.

Trích tin trên Dân trí, sáng mùng 1 Tết Đinh Dậu, 28 Jan. 2017

Expeditions lead or join immersive virtual trips all dissertationauthors.com/ over the world.

GS Nguyễn Đình Đức sáng lập ngành mới: Kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng-Giao thông ở Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN

Vừa là Giám đốc Chương trình Kỹ thuật hạ tầng của Trường Đại học Việt Nhật và Trưởng Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của trường Đại học Công nghệ, GS Nguyễn Đình Đức đã xây dựng Đề án và Chương trình đào tạo hệ kỹ sư (ngành thí điểm) Công nghệ kỹ thuật Xây dựng-Giao thông và đề xuất với Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN triển khai thành lập Bộ môn Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông trực thuộc trường (như đơn vị độc lập) , tiến tới thành lập Khoa mới của nhà trường trong tương lai. Ngành này bắt đầu tuyển sinh và triển khai đào tạo từ 2017.   

Sau gần 30 năm kể từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển đòi hỏi phải đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng như xa lộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, và đầu tư vào hỗn hợp năng lượng hiệu quả như các nhà máy thủy điện, chạy than và khí đốt… Trong thập niên vừa qua tổng đầu tư hạ tầng ở Việt Nam đã chiếm bình quân hơn 10% GDP, vượt qua khỏi các nền kinh tế Đông Á vốn nổi tiếng về mức đầu tư cơ sở hạ tầng cao. Kết quả từ tỉ lệ đầu tư cao của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quy mô và khối lượng cơ sở hạ tầng, góp phần vào sự thành công về tăng trưởng và phát triển của đất nước.

Qua đó trong 2 thập kỷ đã qua, Việt Nam có rất nhiều những công trình xây dựng và giao thông hiện đại phục vụ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu sử dụng của người dân. Ở khu vực phía bắc các công trình xây dựng và giao thông tiêu biểu như hệ thống đường Cao tốc Hà Nội – Lào Cai, Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Đại lộ Thăng Long, Đường Vành đai 3 Hà Nội, Cảng hàng không quốc tế Nội Bài… Các hệ thông giao thông mới này thúc đẩy sự phát triển kinh tế của toàn khu vực cũng như nâng cao sự tiện lợi trong lưu thông hàng hóa và nhu cầu đi lại của người dân giữa Thủ Đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tại khu vực phía Nam có rất nhiều hệ thống đường cao tốc tương tự như TPHCM-Long Thành – Dầu Giây, TPHCM – Trung Lương… Một số công trình lớn hiện đang thi công như dự án đường sắt đô thị Hà Nội và TPHCM. Bên cạnh đó hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước cũng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ tại các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và TPHCM, cũng như nhiều đập, hồ trữ nước phục vụ nông nghiệp, phòng chống hạn hán và phát điện trong cả nước.

Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển đó, kỹ thuật xây dựng và giao thông của Việt Nam còn có nhiều hạn chế như kỹ thuật công nghệ chính của các công trình nêu trên còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, phụ trách thi công các hạng mục chính là các đối tác nước ngoài. Tuổi thọ của các công trình kỹ thuật hạ tầng ngắn, nhanh chóng xuống cấp. Đặc biệt, sự phát triển của công trình kỹ thuật hạ tầng của Việt Nam chưa đáp ứng kịp sự phát triển của kinh tế cũng như nhu cầu sử dụng của người dân ở cả khu vực đô thị và nông thôn, với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra tại Việt Nam.

Ngoài ra, các đô thị lớn của Việt Nam đặc biệt là Hà Nội và TPHCM đang phải đối mặt với vấn đề dân số tập trung quá đông. Tỷ lệ dân số tập trung cao dẫn đến đô thị trên thế giới hiện đối mặt với rất nhiều vấn đề như : vấn đề giao thông, vấn đề môi trường, vấn đề rác thải, vấn đề ô nhiễm nguồn nước, vấn đề xuống cấp của cơ sở hạ tầng, dễ bị tổn thương trước thiên tai và thảm họa (cháy nhà, bão, lũ lụt…)… Do đó việc phát triển và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng và giao thông để duy trì và phát triển đô thị bền vững là nhu cầu cấp bách.

2_img_1445-2

Theo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Chính Phủ, nhân lực khối ngành xây dựng sẽ tăng từ 2,9 triệu người năm 2010 lên khoảng 5 triệu vào năm 2015 và khoảng 8-9 triệu người vào năm 2020. Trong đó, tỷ lệ nhân lực qua đào tạo tăng từ mức 41% năm 2010 lên khoảng 60% năm 2015 và khoảng 65% năm 2020. Bậc sơ cấp nghề chiếm tỷ lệ cao với khoảng 68,5% năm 2015 và khoảng 68% năm 2020, bậc trung cấp chiếm khoảng 25% năm 2015 và khoảng 24% năm 2020. Nhu cầu nhân lực được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học sẽ tăng dần lên với bậc cao đẳng chiếm khoảng 2% năm 2015 và khoảng 3% năm 2020, bậc đại học và trên đại học chiếm khoảng 4,5% năm 2015 và khoảng 5% năm 2020.

Tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều trường Đại học đang thực hiện các chương trình đào tạo cử nhân có liên quan kến kỹ thuật xây dựng và giao thông như trường Đại học Xây dựng, trường Đại học Giao thông vận tải Hà Nội, trường Đại học Thủy lợi… Tuy nhiên các trường đại học nêu trên hầu hết chỉ tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực dựa trên các thế mạnh của các trường đó trong từng lĩnh vực chuyên sâu như xây dựng công trình giao thông (ĐH Giao thông), xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp (ĐH Xây dựng)…

GS Nguyễn Đình Đức cho biết: Chương trình kỹ sư Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường Đại học công nghệ có tính đặc thù và dựa trên thế mạnh của nhà trường, và có những điểm mới, đặc sắc là:

  • Cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ ngành kỹ sư giao thông và xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực infrastructure và Civil Engineering là University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc), từ đó kỹ sư ra trường có thể áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã được trang bị để giải quyết các vấn đề liên
  • quan izmit escort tuzla escort Casino siteleri erotik film izle bedava bahis  đến: giao thông, xây dựng, quy hoạch và quản lý các dự án, duy tu bảo trì các công trình.
  • Phát huy thế mạnh liên ngành của trường ĐHCN là công nghệ thông tin, điện tử và vi cơ điện tử, vật lý kỹ thuật, cơ học kỹ thuật, Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trong chương trình đào tạo.
  • Có sự tham gia xây dựng chương trình, tham gia giảng dạy của các chuyên gia từ tất cả các đại học lớn, đầu ngành trong lĩnh vực này trên địa bàn Thủ đô ĐH Giao thông, ĐH Xây dựng, ĐH Thủy lợi, ĐH Việt Nhật và các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài trong lĩnh vực này
  • Tận dụng được quan hệ với chương trình thạc sỹ kỹ thuật của trường Đại học Việt Nhật và các doanh nghiệp của Nhật bản tại Việt nam trong lĩnh vực này.
  • Đặc sắc của chương trình là có những học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức hoàn toàn mới về giao thông và xây dựng gắn với phát triển bền vững, quy hoạch vùng và lãnh thổ bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
  • Tiếp cận khái niệm mới về công trình xanh trong tương lai, trong đó có áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu chí về công nghệ mới, vật liệu mới, tiết kiệm năng lượng,…
  • Tận dụng được PTN kỹ thuật hạ tầng của VJU (năm 2016-2017) và PTN Vật liệu và kết cấu tiên tiến chống chọi các điều kiện khắc nghiệt của ĐHCN (2017-2018), có điều kiện cho sinh viên thực hành thực tập.

Tháng 12.2016, Giám đốc ĐHQGHN đã phê duyệt và phân bổ 100 chỉ tiêu cho trường ĐHCN tuyển sinh ngành này vào năm 2017.

Tuyển sinh theo nhóm ngành, cùng với ngành Cơ học Kỹ thuật.

2_img_1445-1

Ảnh trên: GS Nguyễn Đình Đức chủ trì  Seminar về Kỹ thuật Xây dựng tại Trường ĐH Việt Nhật,  Dec 2016

Ảnh dưới: GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN), GS Kato (ĐH Tokyo) và các đồng nghiệp Việt Nam – Nhật Bản trong ngành Xây dựng – Giao thông

Google https://topadmissionessay.com/ handwriting input handwrite text on your phone or tablet in 97 languages.

BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NĂM 2016 – 23 BÀI ISI VỚI TỔNG IF =43,122

Năm 2016 đã khép lại và năm mới 2017 đã bắt đầu, nhìn lại chặng đường 1 năm của nhóm nghiên cứu (NNC) và Phòng thí nghiệm (PTN), chúng ta có thể thấy trong năm qua NNC đã nỗ lực vượt bậc và thu được nhiều kết quả rất tốt đẹp:

I. Kết của nghiên cứu x uất sắc với 23 bài báo ISI – tổng IF=43.122 và nhiều bài trên các tạp chí hàng đầu của ngành Cơ học,

  1. Nguyen Dinh Duc, Pham Hong Cong (2016). Nonlinear dynamic response and vibration of sandwich composite plates with negative Poisson’s ratio in auxetic honeycombs. Accepted for publication. Journal of Sandwich Structures and Materials (SAGE, SCIE, IF=2.852).
  2. Pham Toan Thang, Nguyen Dinh Duc, Nguyen Thoi Trung. Effects of variable thickness and imperfection on nonlinear buckling of Sigmoid-functionally graded cylindrical panels. J. Composite Structures, Vol. 55, pp.99-106 (Elsevier, SCIE, IF=3.85).
  3. Thê – Duong Nguyen, Nguyen Dinh Duc (2016). Evaluation of elastic properties and thermal expansion coefficient of composites reinforced by randomly distributed spherical particles with negative Poisson’s ratios. Composite Structures, Vol. 153, pp.569-577 (Elsevier, SCIE, IF=3.85).
  4. Duc Hong Doan, Tinh Quoc Bui, Nguyen Dinh Duc, Fazuyoshi Fushinobu (2016). Hybrid Phase Field Simulation of Dynamic Crack Propagation in Functionally Graded Glass-Filled Epoxy. Vol. 99, pp.266-276. Composite Part B: Engineering (Elsevier, SCI, IF = 3.85).
  5. Nguyen Dinh Duc, Pham Hong Cong, Vu Dinh Quang (2016). Nonlinear dynamic and vibration analysis of piezoelectric eccentrically stiffened FGM plates in thermal environment. International Journal of Mechanical of Sciences, Vol. 115-116, pp.711-722 (Elsevier, SCI, IF=2.48).
  6. Nguyen Dinh Duc, Ngo Duc Tuan, Phuong Tran, Pham Hong Cong, Pham Dinh Nguyen (2016). Nonlinear stability of eccentrically stiffened S-FGM elliptical cylindrical shells in thermal environment. Thin-Walled Structures, Vol.108, pp 280-290 (Elsevier, SCIE, IF=2,063).
  7. Pham Hong Cong, Vu Minh Anh, Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear dynamic response of eccentrically stiffened FGM plate using Reddy’s TSDT in thermal environment. Accepted for publication. Thermal Stresses (Taylor & Francis, SCI, IF= 1.169
  8. Zhen Wang, Tiantang Yu, Tinh Quoc Bui, Ngoc Anh Trinh, Nguyen Thi Hien Luong, Nguyen Dinh Duc, Doan Hong Duc (2016). N umerical modeling of 3-D inclusions and voids by a novel adaptive XFEM. Advances in Engineering Software, Vol.102, pp.105-122 (Elsevier, SCIE, IF =1.765).
  9. Tinh Quoc Bui­, Duc Hong Doan, Thom Van Do, Sohichi Hirose, Nguyen Dinh Duc (2016). High frequency modes meshfree analysis of Reissner-Mindlin plates. Journal of Science: Advanced Materials and Devices, Vol. 1(3), pp.400-412 (Elsevier)
  10. Tran Quoc Quan, Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear thermal stability of eccentrically stiffened FGM double curved shallow shells. Thermal Stresses, Vol.39(4), pp.437-459, (Taylor & Francis, SCI, IF=1.169).
  11. Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear thermal dynamic analysis of eccentrically stiffened S-FGM circular cylindrical shells surrounded on elastic foundations using the Reddy’s third-order shear deformation shell theory. European Journal of Mechanics – A/Solids, Vol.58, pp.10-30  (Elsevier, SCI, IF=2.453).
  12. Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear thermo-electro-mechanical dynamic response of shear deformable piezoelectric Sigmoid functionally graded sandwich circular cylindrical shells on elastic foundations. Journal of  Sandwich Structures and Materials. DOI: 10.1177/1099636216653266 (SAGE, SCIE, IF=2.852).
  13. Dinh Duc Nguyen, Huy Bich Dao, Thi Thuy Anh Vu (2016). On the nonlinear stability of eccentrically stiffened functionally graded annular spherical segment shells. J. Thin-Walled Structures, Vol. 106, pp. 258-267 (Elsevier, SCIE, IF=2.063).
  14. Nguyen Dinh Duc, Pham Hong Cong (2016). Nonlinear thermo-mechanical dynamic analysis and vibration of higher order shear deformable piezoelectric functionally graded material sandwich plates resting on elastic foundations. Journal of Sandwich Structures and Materials. DOI:1177/1099636216648488 (SAGE, SCIE, IF=2.852).
  15. Pham Hong Cong, Nguyen Dinh Duc (2016). Thermal stability analysis of eccentrically stiffened Sigmoid – FGM plate with metal –ceramic-metal layers based on FSD Cogent Engineering (2016), 3: 1182098, pp.1-15 (Taylor & Francis, Scopus Journal).
  16. Nguyen Dinh Duc, Ngo Duc Tuan, Phuong Tran, Tran Quoc Quan (2016). Nonlinear dynamic response and vibration of imperfect shear deformable functionally graded plates subjected to blast and thermal loads.  Mechanics of Advanced Materials and Structures. DOI: 10.1080/15376494.2016.1142024 (Taylor & Francis, SCIE, IF=1.0).
  17. Pham Van Thu, Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear dynamic response and vibration of an imperfect three-phase laminated nanocomposite cylindrical panel resting on elastic foundations in thermal environments. Science and Engineering of Composite Materials, DOI: 10.1515/secm-2015-0467 (De Gruyter, SCIE, IF=0.593).
  18. Nguyen Dinh Duc, Dao Huy Bich, Pham Hong Cong (2016). Nonlinear thermal dynamic response of shear deformable FGM plates on elastic foundations. Thermal Stresses, Vol. 39(3), pp.278-297 (Taylor & Francis, SCI, IF=1.169).
  19. Vu Thi Thuy Anh, Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear response of shear deformable S-FGM shallow spherical shell with ceramic-metal-ceramic layers resting on elastic foundation in thermal environment . Mechanics of Advanced Materials and Structures, Vol. 23 (8), pp.926-934 (Taylor & Francis, SCIE, IF=1.0).
  20. Tran Quoc Quan, Nguyen Dinh Duc (2016). Nonlinear vibration and dynamic response of shear deformable imperfect functionally graded double curved shallow shells resting on elastic foundations in thermal environments. Thermal Stresses, Vol 39 (4), pp.437-459 (Taylor & Francis, SCI, IF=1.169).
  21. Vu Thi Thuy Anh, Pham Hong Cong, Dao Huy Bich, Nguyen Dinh Duc (2016). On the linear stability of eccentrically stiffened functionally graded annular spherical shell on elastic foundations. J. of Advanced Composite Materials, Vol.25(6), pp.525-540 (Taylor & Francis, SCIE, IF=0.929).
  22. Nguyen Dinh Duc, Pham Hong Cong, Vu Dinh Quang (2016). Thermal stability of eccentrically stiffened FGM plate on elastic foundation based on Reddy’s third-order shear deformation plate theory. Thermal Streses 39(7), pp.772-794 (Taylor & Francis, SCI, IF=1.169).
  23. N guyen Dinh Duc, Pham Hong Cong, Ngo Duc Tuan, Phuong Tran, Vu Minh Anh, Vu Dinh Quang (2016). Nonlinear vibration and dynamic response of imperfect eccentrically stiffened shear deformable sandwich plate with functionally graded material in thermal environment. Journal of Sandwich Structures and Materials, Vol 18 (4), 445-473 (SAGE, SCIE, IF=2.852), DOI:1177/1099636215602142.

 II.  P hát triển vượt bậc về đội ngũ, tổ chức và triển khai nhiều hướng nghiên cứu mới, hiện đại

Từ hiệu quả hoạt động tích cực và mạnh mẽ của NNC trong những năm gần đây, theo đề nghị của GS Nguyễn Đình Đức và Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa, Hiệu trưởng trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN đã ký quyết định 579/QĐ-TCCB ngày 12.8.2015 thành lập PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến và bổ nhiệm GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm Trưởng PTN. Ngay sau đó không lâu, Hiệu trưởng ĐHCN cũng đã ký Quyết định 1007/QĐ-ĐT ngày 07.12.2015 giao nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành vật liệu và kết cấu tiên tiến cho PTN, và bắt đầu từ năm 2016 đã bắt đầu triển khai đào tạo sinh viên năm thứ 4 chuyên ngành này . Đến nay, PTN đào tạo hoàn chỉnh các bậc kỹ sư, thạc sỹ và tiến sỹ Cơ học kỹ thuật.

Năm 2016, PTN nhận TS Đoàn Hồng Đức, TS tại Nhật Bản  (Tokyo Institute of Technology), về công tác tại PTN. Cũng trong năm 2016, NNC đã có sự thu hút được sự tham gia hợp tác nghiên cứu của TS Nguyễn Xuân Nguyên (ĐH KHTN), TS Đoàn Văn Thơm (Học Viện KTQS), TS Phạm Tiến Thành (ĐH Việt Nhật VJU), Phan Minh Phúc (ĐH Giao Thông Vận tải), PGS.TS Bùi Quốc Tính (Tokyo Institute of Technology), TS Nguyễn Minh Dũng (University of Tokyo), TS. Đoàn Văn Quang (Tshukuba University), PGS.TS Ngô Đức Tuấn và TS Trần Phương (University of Melbourne),…

Hiện nay, nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức có 10 NCS là : Trần Quốc Quân (ĐHCN), Phạm Văn Thu (ĐH Nha Trang), Vũ Thị Thùy Anh (ĐHCN), Phạm Hồng Công (Viện hàn lâm KHCN Việt Nam), Nguyễn Văn Thành (Học viện Hậu cần), NCS Phan Phúc Minh (ĐH GTVT), NCS Nguyễn Đình Du (ĐH Lạc Hồng),  và NCS Phạm Văn Dũng, Nguyễn Thị Hà (Bộ KHCN, về quản lý KHCN) và NCS Hoàng Trọng Nghĩa (ĐHQGHN, về quản lý giáo dục).

Bên cạnh các hướng nghiên cứu mới truyền thống về ổn định tĩnh và động lực học của các tấm và vỏ FGM, và kết cấu 3 pha bằng polymer nano composite. Năm 2015 đã triển khai nghiên cứu pienzoelectric FGM, kết cấu tấm và vỏ chịu tác động của tải trọng nổ, năm 2016 NNC đã triển khai các hướng nghiên cứu rất mới và hiện đại như vật liệu auxetic, nano FGM, tấm và vỏ FGM có vết nứt,…

Song song với các nghiên cứu đạt trình độ quốc tế, NNC đã tích cực tham gia giải quyết các vẫn đề thực tiễn của đất nước. Giải pháp sử dụng hạt nano titan oxit để trộn vào polymer dùng nâng cao hiệu quả chống thấm trong công nghiệp đóng tàu bằng composite của GS Nguyễn Đình Đức sau 36 tháng thẩm định đã được Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp bằng patent (Bằng Độc quyền giải pháp hữu ích, số 1348, cấp ngày 22.02.2016).

III. Mở rộng và phát triển mạnh mẽ, có chất lượng và hiệu quả các quan hệ trong nước và hợp tác quốc tế:    

  • Trong năm 2016, 4 lượt cán bộ và thành viên của NNC (GS Nguyễn Đình Đức, TS Đặng Đình Long, NCS Trần Quốc Quân) đã được Quỹ Newton Fund của Viện Khoa học Công nghệ Hoàng gia UK tài trợ sang University of Birmingham làm việc và hợp tác, và một cuốn sách chuyên khảo về composite chức năng FGM có gân gia cường trong môi trường cơ và nhiệt do GS Nguyễn Đình Đức đồng chủ biên sẽ được xuất bản tại UK.
  • Tháng 8.2016, NNC và PTN đã đón tiếp PGS.TS Nguyễn Xuân Hùng đến thăm và báo cáo Seminar, nói chuyện với các em NCS và sinh viên.
  • Tháng 8.2016, NNC và PTN đã tiếp đón GS Hoa Van Sương, Department of  Mechanical and Industrial Engineering, Concordia University – Canada, PGS.TS Bùi Quốc Tính (Tokyo Institute of Technology), TS Nguyễn Minh Dũng (University of Tokyo),  đến thăm và làm việc với NNC và PTN.
  • Tháng 10 và tháng 11 đã đón tiếp TS Trần Phương và PGS.TS Ngô Đức Tuấn (University of Melbourne) về thăm và làm việc với PTN.
  • Tháng 12 đón tiếp GS Kusaka và TS Đoàn Quang Văn (Tshukuba University) đến thăm và làm việc với NNC và PTN.

IV. Những sự kiện và điểm nhấn nổi bật khác:

  • GS Nguyễn Đình Đức được mời và  bổ nhiệm làm Giám đốc Chương trình Kỹ thuật Hạ tầng của trường Đại học Việt Nhật.
  • GS Nguyễn Đình Đức được mời làm thành viên Ban biên tập quốc tế của tạp chí Journal of Science: Advanced Materials and Devices (journal in  http://www.sciencedirect.com, NXB Elsevier).
  • GS Nguyễn Đình Đức là Gest Editor of Special Issue on “Advances in hybrid composite materials and structures” of ISI Journal: Advances in Mechanical Engineering (2016).
  • Năm 2016, Trần Quốc Quân vinh dự là người thứ 3 và là nhà khoa học trẻ nhất được nhận giải thưởng Nguyễn Văn Đạo trong Cơ học.
  • Báo chí Việt Nam viết về thành tích nghiên cứu xuất sắc của Thầy và trò:

http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/khoa-hoc/20160807/9x-nhan-giai-thuong-tai-nang-co-hoc-nguyen-van-dao/1150960.html

– http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nguong-mo-chang-trai-9x-co-14-bai-bao-tren-tap-chi-quoc-te-isi- 20160807072413214.htm

http://www.tienphong.vn/giao-duc/nghien-cuu-sinh-9x-voi-17-bai-bao-quoc-te-1073625.tpo

http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nguoi-thay-cua-nhung-hoc-tro-xuat-sac-made-in-viet-nam-2016112000051647.htm

– Năm 2016, các cộng tác viên đắc lực của NNC và PTN: Nguyễn Xuân Nguyên (ĐHKHTN) và Đoàn Văn Thơm (Học Viện KTQS)  bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ.

– Tháng 1.2016, GS Nguyễn Đình Đức và TS Đoàn Hồng Đức tham dự báo cáo tại Hội nghị quốc tế The Fourteenth East Asia-Pacific Conference on Structural Engineering and Construction (EASEC14), Ho Chi Minh City, 6-8 Jan, 2016.

– Tháng 8.2016, GS Nguyễn Đình Đức, TS. Đoàn Hồng Đức, TS Đặng Đình Long, NCS Phạm Văn Thu tham gia báo cáo tạo Hội nghị Toàn quốc về vật liệu và kết cấu composite: Cơ học, Công nghệ và ứng dụng, ĐH Nha Trang, 8-2016.

– Tháng 8.2016, GS Nguyễn Đình Đức tham dự Hội nghị quốc tế Canada-Japan-Vietnam Workshop on Composites (8-10, August, 2016) và vinh dự được mời báo cáo tại phiên toàn thể.

– Tháng 8.2016, GS Nguyễn Đình Đức là Trưởng ban tổ chức đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa ICEMA 4-2016.

– Tháng 9. 2016, GS Nguyễn Đình Đức, TS Đặng Đình Long tham dự HN quốc tế về tính toán ACCMS-TM 2016, với chủ đề “First Principles Analysis & Experiment: Role in Energy Research” được tổ chức vào tháng 9.2016 tại Chennai, Ấn Độ. GS Nguyễn Đình Đức vinh dự được mời làm invited keynote speaker của Hội nghị.

– Tháng 10.2016, GS Nguyễn Đình Đức, TS Đoàn Hồng Đức có báo cáo khoa học tại Hội nghị quốc tế ACCM-10 tại Busan, Hàn Quốc.

– Tháng 10.2016, GS Nguyễn Đình Đức, TS. Đoàn Hồng Đức và Đoàn Văn Thơm tham dự báo cáo khoa học Tại Hội nghị Lần thứ 2 về Cơ học Kỹ thuật và Tự động Hóa kỷ niệm 60 năm thành lập ĐH Bách Khoa Hà Nội.

– GS Nguyễn Đình Đức đã tham gia diễn đàn về nâng cao chất lượng đào tạo Tiến sỹ tại Việt Nam (cùng GS Bùi Văn Ga, GS Trần Văn Nhung) do Báo Tuổi trẻ phối hợp với Bộ giáo dục đào tạo tổ chức ngày 10.11.2016 và GS đã có những ý kiến quan trọng đóng góp để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sỹ tại Việt Nam từng bước đạt chuẩn quốc tế:

https://tapchigiaoduc.moet.edu.vn/Tin-tuc-su-kien/bo-gd-dt-toa-dam-nang-cao-chat-luong-dao-tao-tien-si-154.html

http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/20161110/luan-an-khong-co-gia-tri-sao-van-thanh-tien-si/1216834.html

– Tháng 11.2016, GS Nguyễn Đình Đức tham dự phiên họp lần thứ 1 Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Trường ĐH Việt Nhật (VJU) tại Nhật Bản.

– Ngày 3.12, NNC và PTN phối hợp với chương trình kỹ thuật hạ tầng ĐH Việt Nhật, tổ chức thành công Seminar khoa học tại Trường Đại học Việt Nhật. NCS Vũ Thị Thùy Anh trình bày báo cáo kết quả luận án (với 6 bài ISI) và chuẩn bị bảo vệ cấp cơ sở.

– 16 và 17.12, GS Nguyễn Đình Đức, GS Kusaka, TS Đoàn Quang Văn và TS Đoàn Hồng Đức tham gia báo cáo khoa học tại tiểu ban Biến đổi khí hậu, Hội nghị Việt Nam học lần V – 2016, Hà Nội.

– Tháng 12.2016, sau những chuyến đi làm việc và khảo sát tại nhiều nước trên thế giới, GS Nguyễn Đình Đức đã có những bài viết quan trọng về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Cơ hội và thách thức với Việt Nam, và đề xuất những kế sách đổi mới giáo dục đại học Việt Nam  (từ triết lý, mô hình đào tạo, ngành nghề đào tạo, đổi mới chương trình, thu hút trọng dụng nhân tài và những giải pháp đột phá) nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có những nhóm nghiên cứu xuất sắc, nhân tài xuất sắc để Việt Nam nắm bắt cơ hội vàng lần này:

http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/co-hoi-va-thach-thuc-o-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4-20161219074732406.htm

http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/viet-nam-truoc-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-4-can-co-nhan-tai20161220072831929.htm

http://www.vietnamplus.vn/doi-moi-giao-duc-dai-hoc-chien-luoc-de-viet-nam-nam-co-hoi-moi/422544.vnp

– Ngày 29.12, GS Nguyễn Đình Đức được Khoa Toán – Cơ – Tin học, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN mời báo cáo khoa học và đọc bài giảng trước toàn khoa về các hướng nghiên cứu mới của GS và của PTN.

Kết luận:

Với những thành tích và hoạt động như trên, năm 2016 là năm thành công xuất sắc, tuyệt vời của NNC và PTN.  Tên tuổi và uy tín của NNC và PTN đã được biết đến rộng rãi  trong cộng đồng khoa học trong và ngoài nước.

Chúc cho NNC và PTN ngày càng trưởng thành, vững mạnh, thu được nhiều thành công vang dội, đào tạo được nhiều nhà khoa học trẻ tài năng cho Việt nam, đóng góp xuất sắc và xứng đáng vào sự phát triển của Khoa Cơ học Kỹ thuật, của Trường ĐH Công nghệ nói riêng và của ĐHQGHN nói chung.

Chúc mừng năm mới 2017: vạn sự như ý, thật nhiều thành công.

Google arts and culture discover museums and https://essaydragon.com pay for essay galleries from all over the globe.

iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, hatay escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, iskenderun escort, antakya escort, antakya escort, diyarbakır escort, diyarbakır escort, arsuz escort, arsuz escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, denizli escort, adana escort, adana escort, adana escort, adana escort, adana escort, malatya escort, malatya escort, elazığ escort, elazığ escort, eskişehir escort, eskişehir escort, manisa escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, izmit escort, ısparta escort, ankara escort, ankara escort, gaziantep escort, gaziantep escort, gaziantep escort, seks hikayeleri, erotik hikayeleri, erotik seks hikayeleri, sakarya escort,