Theo VOV, Tieng noi Viet Nam, ngay 01-1-2017
Theo VOV, Tieng noi Viet Nam, ngay 01-1-2017
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN: Thay đổi nền công nghiệp sản xuất toàn cầu thông qua việc tự động hóa quy trình sản xuất, kết hợp các hệ thống ảo và thực thể, hội tụ của các công nghệ mới là viễn cảnh các chuyên gia kỳ vọng đối với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Vậy đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là gì và cuộc cách mạng này liệu có ảnh hưởng gì tới công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước của Việt Nam hiện nay?
1- Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Nhìn lại lịch sử, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII chứng kiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sự ra đời của động cơ hơi nước và năng lượng nước đã thay đổi diện mạo nền công nghiệp thế giới với việc cơ giới hoá sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Giai đoạn sau của thế kỷ IXX là sự bùng nổ của kỹ thuật điện, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng loạt, đánh dấu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2. Giữa thế kỷ IXX là thời điểm bắt đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3, công nghệ thông tin bắt đầu bùng nổ nhanh chóng và quá trình sản xuất được tự động hóa dựa trên hệ thống quản lý máy tính, được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.
Thời điểm hiện tại là giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này được hình thành trên nền tảng thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng thứ 3, xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, tự động hóa – rô bốt, và Internet of Things (IoT). Sự dịch chuyển khoa học kỹ thuật này mới bắt đầu và rục rịch chuyển mình, nhưng sẽ phức tạp và phạm vi ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, sẽ phát triển và lan truyền với tốc độ chưa từng có tiền lệ so với ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
2- Nội dung và tiến trình của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được tạo nên bởi sự hội tụ của các công nghệ mới chủ yếu như IoT- Internet kết nối mọi vạn vật, rô bốt cao cấp, công nghệ in ấn 3D, điện toán đám mây, công nghệ di động không dây, trí tuệ thông minh nhân tạo, công nghệ nano, khoa học về vật liệu tiên tiến, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử,v.v. Các công nghệ sẽ mang tính liên ngành sâu rộng, sức mạnh tiếp cận và xử lý số lượng lớn các yêu cầu từ khách hàng tại cùng một thời điểm, dung lượng lưu trữ dữ liệu không giới hạn, những bước tiến ấn tượng trong lĩnh vực tương tác giữa máy móc và thế giới sinh học, trí thông minh nhân tạo, và từ đó sẽ là nền tảng để xuất hiện các mô hình kinh doanh mới.
Ví dụ các tổ chức, hình thức kinh doanh mà rô bốt sẽ là nhân lực chủ đạo thay thế cho con người trong tương lai.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra sản phẩm theo yêu cầu cụ thể của khách hàng với chi phí phù hợp và xây dựng hệ thống sản xuất hàng loạt có khả năng linh hoạt điều chỉnh theo thay đổi của nhu cầu xã hội, tạo ra lợi ích và tối ưu nhất cho các bên liên quan.
3- Những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới:
Đối với các nhà sản xuất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 chứng kiến sự du nhập của các công nghệ tiên tiến giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc đẩy sáng tạo và phát triển của nền công nghiệp trong dài hạn. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm, dây chuyền cung cấp hiệu quả hơn, chi phí thương mại được giảm thiểu.
Đối với người tiêu dùng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hứa hẹn sẽ thay đổi phương thức tiêu dùng, thời gian tiếp cận sản phẩm. Các hoạt động như tiêu dùng, sử dụng dịch vụ cơ bản đều có thể thực hiện từ xa. Thêm vào đó, người tiêu dùng được tiếp cận thông tin sản phẩm minh bạch hơn do áp lực duy trì lợi thế cạnh tranh giữa các nhà sản xuất.
Một ví dụ là trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là ngành dệt may có thể sẽ hoàn toàn tự động hóa (từ khâu tự động quét cơ thể người để lấy số đo, cho đến sản phẩm cuối cùng); ngành lắp rắp ô tô cũng sẽ hoàn toàn tự động. Cơ quan, doanh nghiệp có nhân công rô bốt, và đương nhiên sẽ kéo theo là những vấn đề phải giải quyết về mặt pháp lý, chẳng hạn tính hợp pháp của các giao dịch được thực hiện hoàn toàn hoặc một phần lớn bằng máy móc thay thế cho con người.
Đối với các cơ quan lập pháp, công nghệ và thiết bị hạ tầng số cho phép việc tương tác hai chiều giữa người dân và chính phủ, đồng thời tăng sức mạnh giám sát và lãnh đạo, điều tiết nền kinh tế, do vậy, sẽ tăng cường và đẩy nhanh sự minh bạch và hội nhập. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ giúp tăng cường an ninh quốc gia dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ nếu hệ thống điều hành nhà nước đủ linh hoạt để quản lý, hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp và công dân.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng tiềm ẩn nguy cơ phá vỡ sự cân bằng của thị trường lao động. Khi rô bốt và tự động hóa lên ngôi, số lượng lao động dư thừa sẽ tăng lên. Mặt khác, khoảng cách giàu nghèo sẽ gia tăng giữa những đối tượng cung cấp vốn tài chính và vốn tri thức (các nhà sáng chế, cổ đông và nhà đầu tư) và những đối tượng phụ thuộc vào sức lao động (người lao động). Theo cách nhìn nhận đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có thể tạo ra sự sụt giảm thu nhập đối với số đông dân cư tại các nước phát triển khi nhu cầu nhân lực có trình độ cao tăng đồng thời nhu cầu nhân lực phổ thông giảm mạnh. Trong lịch sử, các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây cũng làm sâu sắc hơn bất bình đẳng xã hội, kéo theo hàng loạt những biến động lớn về kinh tế, chính trị bao gồm những điều chỉnh về thuế và an sinh xã hội.
Một viễn cảnh khác là các tổ chức, doanh nghiệp có thể chưa đủ tiềm lực để tiếp nhận các công nghệ mới; hoặc các cơ quan hành pháp gặp khó khăn trong công tác tuyển dụng cán bộ quản lý các công nghệ mới một cách toàn diện khi các vấn đề an ninh quốc gia ngày càng phức tạp với sự kết hợp giữa các yếu tố truyền thống và yếu tố phi truyền thống (như chiến tranh mạng, vũ khí sinh học). Viễn cảnh đó đặt ra thách thức phải đổi mới, cải thiện cơ cấu hoặc tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với cả doanh nghiệp và chính phủ.
4- Những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến Việt Nam bao gồm giáo dục và khoa học công nghệ:
Những nước như Hàn Quốc, Ấn độ đã tận dụng khá thành công cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Việt Nam sẽ chuẩn bị để đón nhận cơ hội và thích ứng với các thách thức này như thế nào trong tương lai?
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là cơ hội bùng nổ cho các công ty trong ngành công nghiệp sản xuất nội địa biết tận dụng lợi thế kỹ thuật số và chuyển đổi mô hình kinh doanh kịp thời. Nguồn lực tài chính đầu tư phát triển kỹ thuật số cho các công ty cũng không đòi hỏi nhiều, phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để người tiêu dùng trong nước được tiếp cận gần hơn với các hàng hóa, dịch vụ đa dạng với giá cả hợp lý hơn.
Tuy nhiên, các công ty nội địa đứng trước thách thức phải linh động điều chỉnh sản phẩm theo nhu cầu người tiêu dùng, tích hợp các công nghệ tiên tiến (rô bốt bán tự động, điện toán đám mây…) để giản tiện quy trình sản xuất, giảm thời gian giao hàng, rút ngắn vòng đời sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo khả năng quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh khi ranh giới địa lý của các thị trường thương mại mờ nhạt dần. Đồng thời, phát triển công nghệ tiên tiến cũng có nghĩa là ưu thế về nhân công giá rẻ của Việt Nam tại thời điểm hiện tại sẽ trở thành bất lợi lớn cho sự phát triển công nghiệp của đất nước giai đoạn mới, đồng thời đặt gánh nặng lên nền kinh tế quốc gia trong việc giải quyết việc làm cho một số lượng lớn nhân công trình độ thấp.
Trong ảnh, từ phải qua trái: GS Furuta (Hiệu trưởng Đại học Việt Nhật), GS Nguyễn Đình Đức, GS Vũ Minh Giang (Chủ tịch Hội đồng KHĐT ĐHQGHN) và GS Mai Trọng Nhuận (Chủ tịch Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục và nguyên là Giám đốc ĐHQGHN), Osaka, 11.2016.
Về mặt giáo dục, khả năng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức. Trong giai đoạn sắp tới, Việt Nam đứng trước yêu cầu đầu tư đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực như khoa học về vật liệu mới tiên tiến, công nghệ thông tin, công nghệ nano, tự động hóa, điện tử viễn thông, lưu trữ năng lượng. Các cơ sở đào tạo gặp khó khăn do nhu cầu nhân lực của thị trường lao động khó dự đoán, tốc độ thay đổi công nghệ diễn ra thần tốc. Tuy nhiên, Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thông qua việc thay đổi cách tiếp cận giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp của người học; hỗ trợ sự liên kết hợp tác thuận lợi giữa các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và doanh nghiệp để cung cấp một môi trường thực hành cao giúp người học tiếp cận các xu thế phát triển cũng như đáp ứng yêu cầu công việc sau tốt nghiệp.
Chúng ta phải có một triết lý rõ ràng, dễ hiểu dễ vận dụng về giáo dục đại học (được hiểu là bao gồm các hoạt động đào tạo đại học và sau đại học). Tháng 6.2016 vừa qua, khi dự hội nghị quốc tế ACCMS TM 2016 tại Ấn Độ, ngay tại hội trường lớn nhất của RMS University, có một khẩu hiệu lớn “LEARN, LEAP, LEAD” (tạm dịch là học, nắm bắt cơ hội và nhảy vọt, dẫn dắt và lãnh đạo). Phải chăng đó chính là triết lý giáo dục đại học của Ấn Độ? Phải chăng đó là tầm nhìn của các nhà lãnh đạo nhằm đào tạo, chuẩn bị hành trang từ trong tiềm thức đến hành động cho thế hệ trẻ tương lai của Ấn Độ?
Chúng ta cũng cần nghiên cứu các mô hình đào tạo mới găn với việc đổi mới và cấu trúc lại chương trình đào tạo trong một số ngành và lĩnh vực. Mô hình đào tạo “kỹ sư toàn cầu” – khái niệm kỹ sư hoàn toàn mới, đã bắt đầu được đào tạo tại Nhật Bản từ 2015, tại Tokyo Institute of Technology (GSEP: Global Scientists and Engineers Program). Chương trình đào tạo này có các kiến thức liên ngành về toán học, vật lý, cơ học cộng với nền tảng về công nghệ thông tin, ngoại ngữ và phát triển bền vững – có thể là một trong những giải pháp phù hợp đáp ứng nguồn nhân lực của tương lai?
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Việt Nam cũng cần đầu tư nghiên cứu, tiếp cận nhanh hơn nữa với xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, công nghệ thông tin, tự động hóa và trí tuệ nhận tạo, công nghệ sinh học,…và xa hơn là cả những vấn đề sẽ nảy sinh trong lĩnh vực quản trị, quản lý và khoa học pháp lý. Việt Nam cần có chiến lược để xây dựng bằng được các nhóm nghiên cứu mạnh, các viện nghiên cứu tiên tiến, các trung tâm xuất sắc trong các lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần sớm có chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển các ngành tự động hóa tích hợp với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Suy cho cùng, mấu chốt là cần có nhân tài. Cần thu hút, bồi dưỡng, đào tạo và gây dựng để Việt Nam có những nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực này. Muốn như vậy, có lẽ chúng ta phải có những đột phá trong chính sách sử dụng và đãi ngộ nhân tài. Liệu chúng ta có mạnh dạn như Hàn Quốc đã quyết tâm và đầu tư cho Viện Khoa học Công nghệ Tiên tiến (KIST) của họ trong những năm 60 của thế kỷ XX?
Cuối cùng, sự định hướng phát triển tương lai phụ thuộc vào tư duy, cách thích ứng với thay đổi và quyết tâm chính trị của các cá nhân, lãnh đạo các tổ chức trong nền kinh tế ở cấp vi mô và các nhà lập, hành pháp, tư pháp ở cấp độ vĩ mô. Đổi mới chiến lược phát triển, thu hút – trọng dụng và bồi dưỡng nhân tài, xây dựng các mô hình kinh doanh phù hợp, kết hợp đầu tư giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu ở trình độ cao trong dài hạn có thể cho phép Việt Nam vừa bảo vệ quyền lợi người dân vừa hỗ trợ sáng tạo và tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN – Dân trí, ngày 19.12.2016 và 20.12.2016
Cách đây 33 năm, 9.1983, khi đó GS Nguyễn Đình Tứ còn đang là Bộ trưởng Bộ Đại học, đã tổ chức liên hoan sinh viên xuất sắc toàn quốc lần thứ 1 tại Quảng Bá, Hà Nội.
Hơn 300 sinh viên ưu tú nhất của cả nước đã về đây. Đoàn ĐH Tổng hợp Hà Nội gồm có 6 sinh viên xuất sắc nhất: Nguyễn Đình Đức (Toán, K25), Hoàng Trung Mạnh (Triết, K24), Nguyễn Văn Hiệp (Văn, K26), Thân Hoài Anh (Lý, K26), Nguyễn Thị Nhân Hòa (Ngoại ngữ, K.25) và Mục Chăn Tha Lạt (sinh viên Lào, Khoa tiếng Việt).
Những năm tháng đó đất nước đang trong thời kỳ bao cấp, rất khó khăn. Sinh viên khi đó, trừ các bạn như Nhân Hòa và Hoài Anh, anh Mạnh ở ngoại trú, trong nội trú đứa nào đứa nấy cũng gầy gò và cảm giác lúc nào cũng đói, nhưng đầy hoài bão và ham học, và học rất giỏi. Mắt thật sáng, trong veo.
Chúng tôi được quen biết và giao lưu với nhau, từ đó coi nhau như tri kỷ, như anh em. Vui buồn có nhau và tình bạn thân thiết còn mãi đến bây giờ. Các thế hệ ngày đó đã trưởng thành, như Nguyễn Công Định, nay là Thiếu tướng, GS.TSKH, Giám đốc Học viên Kỹ thuật Quân sự, Hàn Vũ Hải nay là Đại tá – BQP (và cũng chính là người đã lưu giữ và gửi tặng lại mình tấm ảnh quý này), Nguyễn Đình Đức nay là GS.TSKH – ĐHQGHN, Nguyễn Văn Hiệp nay là GS.TS – Viện Trưởng Viện Ngôn ngữ,..v.v.
Nhìn lại bức ảnh ngày xưa không khỏi bùi ngùi xúc động. Tuổi 20 chúng tôi vô tư và hồn nhiên là thế. Xin chúc các anh chị mãi mãi giữ được tình bạn và tình yêu trong sáng như tuổi 20 ngày nào. Chúc các anh chị, các bạn và gia đình luôn mạnh khỏe và hạnh phúc, và đóng góp ngày càng nhiều cho Tổ quốc và cho thế hệ trẻ.
Trong ảnh, tháng 10.1983, tại Công viên Thống Nhất. Đoàn sinh viên xuất sắc ĐHTH Hà nội: Ngồi ngay đầu tiên, mặc quân phục sỹ quan dự bị là Nguyễn Đình Đức (thủ khoa, sinh viên xuất sắc Khoa Toán Cơ K25), hàng sau ngồi sau cầm đàn ghi ta là HV Hải (Học viên sỹ quan PKKQ, cũng là sinh viên xuất sắc bên quân đội, cực đẹp trai, giao lưu với Đoàn ĐHTH Hà Nội, nay là Đại tá, BQP), kế đến là anh HT Mạnh (học sinh xuất sắc, Triết, K24, nay hình như đang ở CHLB Đức), tiếp theo là NV Hiệp (học sinh xuất sắc Văn K27, nay là GS.TS – Viện trưởng Viện Ngôn ngữ), khoác vai Hiệp là bạn Tiến K26 ở Khoa Sinh K26 (thành phần mở rộng, giao lưu với Đoàn), kế đến là Nhân Hòa (Học sinh xuất sắc Khoa Ngoại ngữ, K25, nay là TS, GV Tiếng Anh, Khoa Quốc tế), kế đến là Thân Hoài Anh ( học sinh xuất sắc Lý K.26, nay là phu nhân của Nhân Hòa), và bạn Hương (Thành phần mở rộng, sinh viên Kinh tế Chính trị K.26, giao lưu với Đoàn).
Tặng các bạn nghe 2 bài hát này (để nhớ mãi tuổi 20 tươi đẹp, hào hùng, oanh liệt):
http://www.keeng.vn/…/Mai-Mai-Tuoi-20-Le-Anh-…/SWXXQRH3.html
https://www.youtube.com/watch?v=_-P-f_ou0e4
Từ ngày 15-17.12, nhân dịp sang Việt Nam dự hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ V (15,16-12-2016), GS Hiroyuki Kusaka, chuyên gia hàng đầu về biến đổi khí hậu của Nhật Bản (dự báo mưa, lũ,..và các phần mềm dự báo khí tượng) và Dr. Đoàn Quang Văn (ĐH Tsukuba, Nhật Bản) đã đến thăm PTN và giao lưu với các bạn sinh viên, NCS của PTN cũng như lớp học viên Khóa của ĐH Việt Nhật.
GS Nguyễn Đình Đức, GS Hiroyuki Kusaka và các em học viên khóa 1 của ĐH Việt Nhật
Tiến sỹ Đoàn Văn Quang giới thiệu về xử lý bài toán dự báo mưa ở Hà Hội
GS Nguyễn Đình Đức đã giới thiệu với GS Hiroyuki Kusaka về các hướng nghiên cứu của PTN, về các bậc đào tạo và chương trình đào tạo Cơ kỹ thuật (ĐH Công nghệ) cũng như Kỹ thuật hạ tầng (của ĐH Việt Nhật). Hai bên đã nhất trí chia sẻ tài nguyên, tài liệu học tập; phía GS Kusaka hỗ trợ PTN của Việt Nam về phần mềm hiện có và sử dụng các máy chủ và tài nguyên thiết bị tính toán hiệu năng cao để giải quyết các bài toán lớn về khí hậu và khí tượng; hai bên cũng nhất trí việc sẽ trao đổi cán bộ, sinh viên thưc tập; cùng nhau nghiên cứu phát huy thế mạnh của mỗi bên trong lĩnh vực dự báo mưa, lũ,….và thích ứng với biến đổi khí hậu của 2 nước.
Hội thảo quốc tế Việt Nam học đã diễn ra trong 2 ngày 15 – 16/12, thu hút được sự quan tâm đăng ký và gửi tóm tắt báo cáo của hơn 1.200 nhà khoa học, trong đó có 150 nhà khoa học nước ngoài đến từ trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ.
834 bản báo cáo tóm tắt và gần 500 báo cáo toàn văn đã được lựa chọn trình bày tại hội thảo, trong đó có 30 báo cáo được mời và đặt hàng từ các học giả có uy tín và tầm ảnh hưởng hàng đầu trên thế giới về ngoại giao, văn hóa, kinh tế, giáo dục, đổi mới sáng tạo và biến đổi khí hậu.
Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN) và GS Hiroyuki Kusaka (ĐH Tsukuba) đã có báo cáo khoa học chung tham gia báo cáo tại Tiểu ban 6 về Biến đổi khí hậu của Hội nghị này:
APPLYING DYNAMICAL DOWNSCALING METHOD WITH A HIGH-RESOLUTION REGIONAL CLIMATE MODEL FOR LOCAL CLIMATE PROJECTION OF GREATER HANOI CITY
Đoàn Quang Văn1*, Hiroyuki Kusaka1
Nguyễn Minh Trường2
Đoàn Hồng Đức3, Nguyễn Đình Đức3
1 University of Tsukuba, Japan
2 Hanoi University of Science, Vietnam
3 University of Engineering and Technology, Vietnam
* Corresponding author, email address: doan.van.gb@u.tsukuba.ac.jp
Keywords: Global warming; future urban climate; dynamical downscaling; Hanoi.
Paper’s ID: VS6.028.P
Abstract
izmir escort kartal escort gebze escort antalya escort didim escort marmaris escort şişli escort ümraniye escort anadolu yakası escort saç ekimi porno mecidiyeköy escort şişli escort
This is well known that the urbanization can increase the urban heat island effect and modify the localized rainfall system, especially in cities where urbanization is fast proceeding. For the Greater Hanoi city, the problem could be more complicated when the city will face both effects global warming and future urbanization. This study attempts to project the local climate of the Greater Hanoi city in considering the impacts of global warming and the local urban expansion by using the dynamical downscaling (DDS) method. In fact, there were some previous studies using DDS to project the climate of Vietnam in general; however, at a low spatial resolution, these studies cannot capture the localized meteorological events such as urban heat island (UHI) or urbanization-related heavy rainfall. In this study, DDS is applied with 2-km horizontal-resolution regional climate model (RCM) coupled with urban canopy model (UCM) to simulate and project the UHI phenomena as well as the localized heavy rainfall over the city. The outputs from three global climate models (GCM) for two global warming scenarios Representative Concentration Pathways 4.5 and 8.5 are used to create the initial and boundary condition for RCM. The future urban expansion, according to the master plan of Hanoi City is included in the model, so that the DDS results can reflect the impact of local urbanization on urban climate. The performance of the model is evaluated by comparing the simulated results for climatological variables such as air temperature, humidity and rainfall versus those of observation. The projected results are analyzed and the impact of future urbanization and global warming on the change in localized UHI and heavy rainfall are quantified.
18.4.2014. Kể từ ngày thành lập đến nay, ĐHQGHN đã mở 25 ngành, chuyên ngành đào tạo thí điểm, trong đó có 4 chương trình đại học, 18 chương trình thạc sĩ và 3 chương trình tiến sĩ. Ngày 18.4, ĐHQGHN đã tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá các chương trình đào tạo thí điểm. Nhân dịp này, phóng viên Website của ĐHQGHN đã trao đổi, phỏng vấn nhanh GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo của ĐHQGHN xung quanh chủ đề về các chương trình thí điểm và hoạt động đào tạo của ĐHQGHN.
Ảnh từ trái sang: GS. Ngô Bảo Châu, Phó Giám đốc ĐHQGHN GS. Nguyễn Hữu Đức, Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tại ĐHQGHN (tháng 12/2013)
PV: Thưa GS, tại hội nghị tổng kết các chương trình đào tạo thí điểm, nhiều đại biểu đã đánh giá các chương trình đào tạo thí điểm như những “đặc sản” trong đào tạo của ĐHQGHN. GS đánh giá thế nào về nhận định này?
Các chương trình đào tạo thí điểm là các chương trình đào tạo chưa có trong danh mục đào tạo của Nhà nước. Theo Nghị định và Quy chế tổ chức hoạt động của ĐHQG, giám đốc 2 đại học quốc gia được quyền mở ngành (bậc đào tạo đại học) và chuyên ngành (bậc đào tạo sau đại học) thí điểm. Hiện nay giám đốc các đại học vùng và hiệu trưởng một số đại học trọng điểm cũng đã được Bộ giáo dục và đào tạo cho phép quyết định mở các chuyên ngành thí điểm ở bậc sau đại học.
Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN GS.TSKH Nguyễn Đình Đức
Tại hội nghị tổng kết, các số liệu cho thấy các chương trình thí điểm đều đã góp phần đáp ứng kịp thời, hiệu quả nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước. Có thể lấy ví dụ ngay từ năm 2006, ĐHQGHN là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên trong cả nước đã mở ngành đào tạo thạc sỹ đo lường và đánh giá trong giáo dục và sau đó là chương trình tiến sỹ của chuyên ngành này. Đến nay, hầu hết cán bộ trong những lứa đầu tiên của ngành và địa phương trên toàn quốc liên quan đến khảo thí, đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục đều được đào tạo từ những chương trình này. Hoặc như chương trình Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên của ĐH Giáo dục, chương trình thạc sỹ du lịch học của ĐH Xã hội và Nhân văn,… đều được xây dựng trên cơ sở nhu cầu lớn về nguồn nhân lực của đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển.Từ năm 1993 đến nay, ĐHQGHN đã mở đào tạo 25 ngành, chuyên ngành đào tạo thí điểm, trong đó có 4 chương trình đại học, 18 chương trình thạc sỹ và 3 chương trình tiến sỹ. Trong số đó có 3 chương trình bậc đại học (Hóa dược, Kinh tế phát triển, Luật kinh doanh), 2 chương trình thạc sỹ (Ngôn ngữ Nhật bản, Đo lường và đánh giá trong giáo dục) và 1 chương trình tiến sỹ (Đo lường và đánh giá trong giáo dục) đã được đưa bổ dung vào danh mục các ngành, chuyên ngành đào tạo của Nhà nước.
Hai là chất lượng của các chương trình đào tạo thí điểm được xã hội khẳng định. Ví dụ như chương trình thạc sĩ và tiến sĩ Vật liệu và linh kiện nano: các học viên, NCS trong quá trình đào tạo đều có công trình công bố tại các hội nghị khoa học chuyên ngành, các tạp chí khoa học chuyên ngành quốc gia và quốc tế. Trung bình khoảng 1.5 công bố/học viên (bậc thạc sỹ). Số bài báo khoa học công bố trước khi bảo vệ luận án của NCS đạt từ 6 bài trở lên, đặc biệt, trong đó mỗi NCS đều có ít nhất 2 bài được công bố trên các tạp chí khoa học thuộc hệ thống tạp chí ISI. Kết quả như vậy có thể khẳng định chất lượng của các tiến sỹ được đào tạo không hề thua kém chất lượng đào tạo tại những nước tiên tiến.
Sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN
Những ví dụ đó cho thấy tính đặc sắc, độc đáo và chất lượng của các chương trình đào tạo thí điểm của ĐHQGHN. Những chương trình thí điểm khác như cử nhân Kế toán, phân tích và kiểm toán, thạc sỹ về pháp luật về quyền con người, thạc sỹ khoa học quản lý, thạc sỹ biến đổi khí hậu, thạc sỹ môi trường và phát triển bền vững,…đều là những ngành “hay”, có sức thu hút và nhu cầu xã hội cao. Chính vì vậy, nhận định các chương trình đào tạo thí điểm như những “đặc sản” trong đào tạo của ĐHQGHN là có cơ sở. Nhưng tôi cũng nhấn mạnh là các chương trình đào tạo thí điểm chỉ là một trong những “đặc sản”, vì bên cạnh đó, ĐHQGHN còn có những “đặc sản” khác trong đào tạo như hệ cử nhân khoa học tài năng, các chương trình nhiệm vụ chiến lược, hệ trung học phổ thông chuyên với truyền thống vẻ vang và mới đây là bằng kép. Trong đại học đa ngành, đa lĩnh vực và có tính liên thông cao, thì bằng kép (trong vòng tối đa 6 năm, người học có thể học song song 2 chương trình để nhận được 2 bằng đại học chính quy nếu đáp ứng các điều kiện theo Quy chế) cũng là một cơ hội tốt cho người học. Hoặc những mô hình đào tạo mới như mô hình 3+1 (cử nhân của ĐH giáo dục), 3+2 (Khoa Y-Dược) cũng là những sáng tạo và thành công, những “đặc sản” trong đào tạo của ĐHQGHN.
PV: Thưa GS, để ĐHQGHN mở và triển khai thành công các chương trình đào tạo thí điểm, phải đáp ứng những điều kiện gì?
Trước hết, nhân tố quan trọng và căn bản nhất là ĐHQGHN phát triển theo mô hình đại học nghiên cứu tiên tiến. Nghiên cứu khoa học luôn gắn kết chặt chẽ với đào tạo. Đào tạo thông qua nghiên cứu và nghiên cứu khoa học để tiếp cận đỉnh cao của trí thức, từ đó quay trở lại đào tạo với chất lượng cao, trình độ cao. Khi nghiên cứu đã đủ mạnh, đủ tích lũy về nhân lực, về kết quả nghiên cứu, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác, mới có điều kiện đầy đủ để xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo mới có chất lượng. Vì vậy, các chương trình thí điểm vừa là thành quả, vừa là nhu cầu tất yếu trong quá trình vận động, phát triển và hội nhập của một đại học nghiên cứu.
Các trường đại học nghiên cứu cũng thường là nơi nảy sinh các tư tưởng, hệ tiên đề, từ đó thiết lập nên những nền móng căn bản của các ngành, chuyên ngành, trường phái khoa học. Chính vì vậy, các đại học nghiên cứu tiên tiến có vai trò nòng cột trong hệ thống giáo dục đại học của mỗi quốc gia và tiên phong trong việc định hướng mở các chương trình đào tạo mới, hiện đại.
Hai là ĐHQGHN có thuận lợi là đại học đa ngành, đa lĩnh vực, có tính liên thông cao, có đầy đủ các ngành và lĩnh vực từ khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ, xã hội nhân văn, kinh tế, luật và ngoại ngữ trong ĐHQGHN. Không có sự thuận lợi này, ĐHQGHN khó có điều kiện triển khai nhiều chương trình thí điểm. Chẳng hạn như tham gia giảng dạy và đào tạo cho học viên trong chương trình biến đổi khí hậu có các chuyên gia về địa lý tự nhiên, địa chất của Đại học Khoa học Tự nhiên, về môi trường và đa dạng sinh học của Trung tâm nghiên cứu về Tài nguyên và Môi trường, về luật của các chuyên gia đến từ Khoa Luật, về khu vực học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,…
Sinh viên đang tra cứu tài liệu tại thư viện ĐHQGHN
Và tất nhiên, phải đáp ứng đầy đủ các quy định về mở ngành, chuyên ngành mới theo quy định của Bộ giáo dục Đào tạo và của ĐHQGHN, các điều kiện đảm chất lượng như số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cơ hữu, cơ sở vật chất, học liệu, các định hướng, đề tài nghiên cứu có thể hướng dẫn luận văn luận án,…
Bên cạnh đó, sứ mệnh của ĐHQGHN là tiên phong đổi mới trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, vì vậy đứng trước nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ nghiên cứu, phục vụ quản lý và góp phần phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng và hội nhập, ĐHQGHN huy động tối đa lực lượng các nhà khoa học, chủ động nghiên cứu đề xuất những chương trình đào tạo mới, hiện đại. Những chương trình như Vật liệu và linh kiện nano, Khoa học quản lý, Biến đổi khí hậu, Quản trị An ninh phi truyền thống… là những chương trình như vậy.
PV: Thưa GS, GS đánh giá thế nào về triển vọng mở các ngành, chuyên ngành thí điểm của ĐHQGHN trong thời gian tới?
Một số ngành, chuyên ngành đào tạo thí điểm đã có kết quả và chất lượng đào tạo tốt, ổn định, ĐHQGHN đã có văn bản đề nghị và chắc chắn Bộ giáo dục và Đào tạo sẽ xem xét đưa một số ngành, chuyên ngành thí điểm của ĐHQGHN vào danh mục đào tạo của Nhà nước, và ĐHQGHN hoàn thành sứ mệnh tiên phong của mình trong việc mở những ngành, chuyên ngành mới này.
Việc mở các ngành, chuyên ngành mới thí điểm vừa là sứ mệnh, vừa là nhu cầu tất yếu của những đại học nghiên cứu tiên tiến, đa ngành, đa lĩnh vực như ĐHQGHN trong quá trình phát triển không ngừng và hội nhập. Mới đây, ĐHQGHN đã công bố quy hoạch ngành, chuyên ngành đào tạo đến 2020. Theo đó đến năm 2020 danh mục các ngành , chuyên ngành đào tạo thí điểm của ĐHQGHN sẽ có thêm 9 ngành đào tạo đại học, 32 chuyên ngành thạc sỹ và 16 chuyên ngành đào tạo tiến sỹ.
PV: Thưa GS, trong thời gian vừa qua ĐHQGHN đã triển khai những giải pháp cụ thể gì để không ngừng nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo thí điểm nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung?
Theo quy định, sau 2 khóa đào tạo thí điểm, các chương trình thí điểm đều phải tổ chức tổng kết đánh giá kết quả đã đạt được, rút ra những bài học và kinh nghiệm, hoàn thiện chương trình, rà soát các điều kiện đảm bảo chất lượng. Lần này là lần ĐHQGHN tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá tổng thể, toàn diện các chương trình thí điểm cấp ĐHQGHN.
ĐHQGHN là đại học nghiên cứu, nên muốn nâng cao chất lượng đào tạo, trước hết phải nâng cao chất lượng của đội ngũ. Hiện nay 45% đội ngũ giảng viên đã có trình độ tiến sỹ, 23% có học hàm GS, PGS. Nhiều đơn vị như trường ĐH Khoa học Tự nhiên và ĐH Công nghệ, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ đã trên 70%. ĐHQGHN đang xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, rà soát, đánh giá và phân loại cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và quản lý thông qua các tiêu chí, trên cơ sở đó quy hoạch và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.
Sinh viên của ĐHQGHN
Năm 2012-2013, ĐHQGHN đã hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ, chuyển đổi toàn bộ trên 300 chương trình đào tạo đại học, sau đại theo chuẩn đầu ra. Và tiếp theo đã chỉ đạo các đơn vị đang triển khai xây dựng chuẩn đầu ra của các môn học trong chương trình đào tạo (với số lượng chương trình đào tạo như vậy, số lượng các môn học lên đến hàng vài nghìn, một khối lượng công việc không nhỏ). Công việc này cũng sẽ được hoàn tất trước tháng 8.2014.
Muốn hội nhập phải kiểm định chất lượng. Hầu hết các đơn vị đào tạo của ĐHQGHN đều đã được kiểm định và đánh giá chất lượng theo tiêu chí kiểm định của ĐHQGHN và thực hiện các quy định về kiểm định chất lượng của Bộ giáo dục và Đào tạo. Giám đốc ĐHQGHN cũng đã phê duyệt Kế hoạch kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo của ĐHQGHN, theo đó, ĐHQGHN đang từng bước kiểm định các chương trình đào tạo. Với các chương trình tiên tiến, nhiệm vụ chiến lược đã và đang tiến hành kiểm định theo chuẩn AUN (kiểm định khu vực châu Á).
Cũng từ năm 2013 đến nay, Giám đốc ĐHQGHN đã phê duyệt đề án tăng cường kỷ cương, giám sát trong hoạt động đào tạo, tiến hành kiểm tra, rà soát tất cả các khâu từ tuyển sinh, quản lý tổ chức đào tạo cho đến cấp bằng, qua đó kịp thời phát hiện những thiếu sót trong thực hiện và trong các văn bản hướng dẫn, quy định, để kịp thời điều chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và điều hành trong đào tạo. Trong 2013, ĐHQGHN ban hành các hướng dẫn về giảng dạy các môn học ngoại ngữ bậc sau đại học, sửa đổi quy định về đào tạo nhiệm vụ chiến lược (chuẩn quốc tế) và ban hành mới quy định về các hoạt động liên kết đào tạo quốc tế. Trọng tâm từ năm 2014 là đẩy mạnh và phát triển mô hình đào tạo cử nhân, kỹ sư tài năng và đặc biệt là nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo bậc sau đại học.
ĐHQGHN đã bắt đầu áp dụng thí điểm đổi mới tuyển sinh theo đánh giá năng lực thành công cho bậc sạu đại học từ năm 2011 (bậc thạc sỹ, thí điểm cho 3 chuyên ngành: Biến đổi khí hậu, Quản trị công nghệ và phát triển doanh nghiệp, Môi trường và phát triển bền vững) và hiện nay đang hoàn thiện bộ đề thi đánh giá năng lực để áp dụng cho các hệ đặc biệt ở bậc đại học (tuyển hệ tài năng, chất lượng cao, chương trình tiên tiến, nhiệm vụ chiến lược sau khi đã thi kỳ thi 3 chung và trúng tuyển vào ĐHQGHN), và mở rộng áp dụng thí điểm cho bậc sau đại học ở tất cả các đơn vị (mỗi đơn vị tối thiểu thí điểm một chuyên ngành thạc sỹ). Ban Đào tạo cũng đang khẩn trương phối hợp với các đơn vị để hoàn thành các hướng dẫn, các giải pháp kỹ thuật và triển khai xây dựng phần mềm phục vụ công tác đổi mới tuyển sinh trong năm 2014.
Bên cạnh đào tạo kiến thức, ĐHQGHN quan tâm đến đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng tin học và các kỹ năng mềm cho sinh viên. Từ năm 2012, sinh viên ĐHQGHN được đào tạo kỹ năng mềm. Khi ra trường tối thiểu có 5 kỹ năng mềm (do các em lựa chọn trong 100 kỹ năng được định dạng) được đào tạo, kiểm tra đánh giá. Tất cả được công bố trong chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo.
Bên cạnh đó, Giám đốc ĐHQGHN quan tâm đầu tư đến học liệu, cơ sở vật chất, các phòng thí ngiệm, triển khai dự án “E-book” (Thư viện ĐHQGHN) và Dự án sách chất lượng cao (Nhà Xuất bản ĐHQGHN); triển khai Đề án tăng cường khả năng có việc làm cho sinh viên tốt nghiệp (của Trung tâm phát triển nguồn nhân lực). Dự án này sẽ điều tra phản hồi của các nhà tuyển dụng, các cựu sinh viên, các nhà quản lý, doanh nghiệp,… để điều chỉnh chương trình đào tạo, tăng cường đào tạo kỹ năng và khả năng thực hành cho sinh viên, thiết lập hệ thống liên hệ với các cựu sinh viên, từ đó, nâng cao cơ hội có việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Không chỉ trang bị kiến thức, sự khác biệt trong đào tạo của ĐHQGHN là chú trọng phát triển tầm nhìn cho người học. Quan điểm xuyên suốt là đào tạo không chỉ để người học ra trường có việc làm, để khởi nghiệp, mà còn có đầy đủ kiến thức, năng lực, phẩm chất, phương pháp tư duy và bản lĩnh để sáng nghiệp.
Chỉ tính từ năm 2008 đến nay, ĐHQGHN đã cấp bằng cho 12.334 thạc sỹ (và đang đào tạo trên 11.000 học viên cao học), 423 tiến sỹ (và đang đào tạo 1.180 NCS); xuất bản bổ sung trên 500 sách chuyên khảo, giáo trình; đăng tải hơn 1.000 bài báo trên các tạp chí quốc tế, hơn 3.000 bài báo trên các tạp chí khoa học trong nước; 1.500 báo cáo tại các hội nghị khoa học quốc tế, 2.000 báo cáo tại các hội nghị khoa học trong nước; thực hiện trên 500 đề tài KH&CN các loạị. Việc gắn đào tạo với nghiên cứu vừa là truyền thống, vừa là nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo ở ĐHQGHN.
Xin nhấn mạnh là theo thống kê từ năm 2012 đến nay, khoảng 50% số NCS của các ngành KHTN-CN của ĐHQGHN khi bảo vệ luận án tiến sỹ đều có bài đăng trên các tạp chí quốc tế. Cá biệt từ năm 2011 đến nay, liên tục năm nào cũng có sinh viên của ĐHQGHN có bài công bố trên các tạp chí quốc tế ISI. Không phải ngẫu nhiên từ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, GS Ngô Bảo Châu,….cho đến Lê Anh Xuân, Nguyễn Văn Thạc,….và nhiều tên tuổi khác của Việt Nam đều nguyên là sinh viên các hệ đào tạo khác nhau, là cựu sinh viên của ĐH Tổng hợp Hà Nội trước kia và nay là ĐHQGHN. Tôi tin tưởng chắc chắn với những giải pháp cụ thể và đúng, trúng như vậy, chắc chắn hoạt động đào tạo của ĐHQGHN sẽ ngày càng được khẳng định và gặt hái được nhiều thành công và kết quả tốt đẹp hơn nữa.
4.2014 Theo VNU News
Thứ hai, 28/11/2016, 14:56 (GMT+7)
Bội thực tiến sĩ (TS), chất lượng luận án TS ở các cơ sở đào tạo không đồng đều và có thể vàng thau lẫn lộn. Nhiều luận án ít giá trị thực tế, không có tính khoa học, như một báo cáo tổng kết, nhưng nghiên cứu sinh (NCS) vẫn được cấp bằng TS…
Lễ trao bằng TS tại Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
Đó là những vấn đề mà lâu nay dư luận đặt ra rất bức xúc. Trước tình hình này, Bộ Giáo dục – Đào tạo (GD-ĐT) đang tiến hành sửa đổi, bổ sung quy chế về đào tạo TS.
Chạy theo số lượng
Nói về tình trạng “bội thực” TS hiện nay, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho biết, có những cơ sở đào tạo TS chạy theo số lượng mà buông lỏng chất lượng. Thực tế, NCS TS là các nhà nghiên cứu, sản sinh ra tri thức, trí tuệ mới; tuy nhiên, nhiều NCS không xác định rõ động cơ, mục tiêu, không xác định rõ tầm mức hoạt động nghiên cứu của bậc đào tạo TS, vì thế không có những đề tài chất lượng, không tiếp cận được chuẩn thế giới. Cùng với đó, quy chế đào tạo TS chưa được thực hiện nghiêm do còn nhiều “du di”. Đầu tư nhà nước cho đào tạo TS còn quá thấp – thấp nhiều lần so với mức trung bình của thế giới. GS-TSKH Trần Văn Nhung, Tổng Thư ký Hội đồng chức danh GS Nhà nước, cho rằng chưa có một nước nào mà kinh phí 15 triệu đồng/NCS/năm, nên“tiền nào của nấy”!
GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo Đại học Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội, cho rằng những lý do mà Thứ trưởng Bùi Văn Ga đưa ra đều đúng. Nhưng bên cạnh đó còn lý do khác. Đó là do chất lượng đầu vào ngày càng thấp. “Năm 1976, Việt Nam lần đầu tiên đào tạo phó TS trong nước là Hoàng Hữu Đường. 6 năm sau, Hoàng Hữu Đường lại là người đầu tiên bảo vệ TS khoa học trong nước. Điều kiện khó khăn là thế, nhưng chất lượng TS rất tốt, không có ai kêu ca. Đó là vì chất lượng đầu vào tốt, 30 – 40 người thi, chỉ có 2 – 3 người đậu; trong quá trình đào tạo, mỗi người phải thi 3 chuyên đề nên phải học rất chắc chắn. Ngoài kết quả thông qua chất lượng của luận án, hội đồng còn xem xét người đó có xứng đáng không mới trao quyết định công nhận, nên có khi phải mất 5 – 7 năm mới đào tạo được một TS”, GS Nguyện Đình Đức thẳng thắn đánh giá. Theo ông, vấn đề hiện nay của đào tạo TS là quy mô đào tạo quá nhiều, chất lượng và trách nhiệm của giáo viên hướng dẫn chưa đảm bảo, trong khi lẽ ra người thầy phải có trình độ cao, phải khắt khe.
Nâng tiêu chuẩn nghiên cứu sinh
PGS-TS Vũ Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội, cho rằng để nâng tầm chất lượng đào tạo TS bảo đảm yêu cầu hội nhập quốc tế thì yếu tố thứ nhất là điều kiện tuyển sinh. “NCS TS phải có tố chất nghiên cứu khoa học và trình độ ngoại ngữ. Có tố chất hay không căn cứ vào các công trình khoa học của NCS. Ngoại ngữ là rất cần thiết, vì vững ngoại ngữ thì NCS mới có điều kiện tham khảo, đọc tài liệu nước ngoài, tham gia môi trường học thuật thế giới”, bà Lan Anh nêu. Còn theo GS Trần Văn Nhung, phải định nghĩa được khái niệm TS theo chuẩn quốc tế, ví dụ lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất thiết phải có phát minh; lĩnh vực xã hội nhân văn phải có các bài báo bằng tiếng nước ngoài đăng ở tạp chí thế giới ISI. Đào tạo TS không cần nhiều, mà phải có chất lượng. Cùng với đó, những quy định về bổ nhiệm không cần chạy theo bằng TS, không nhất thiết yêu cầu vị trí này vị trí kia phải có bằng TS vì như thế chỉ khiến chạy đua học TS. Ngoài ra, cần có quy định chặt chẽ “ai là phản biện, ai nằm trong hội đồng” với những tiêu chuẩn đi kèm không thể thấp được.
Từ thực tế này, dự thảo quy chế đào tạo TS mới đang được Bộ GD-ĐT hoàn chỉnh và công bố với nhiều điểm mới, theo hướng nâng chuẩn của NCS, trách nhiệm của hội đồng chấm luận án, của người hướng dẫn. Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, quy chế hiện hành quy định ngoại ngữ bắt buộc ở đầu ra, nhưng quy chế mới bắt buộc ngoại ngữ phải đạt chuẩn nhất định ngay từ đầu vào. NCS phải có trình độ ngoại ngữ cần thiết để nghiên cứu, tham khảo tài liệu. Mặt khác, quy chế mới cũng đòi hỏi NCS phải chứng minh được năng lực ban đầu về nghiên cứu khoa học của mình thông qua những công trình đã công bố trong nước và quốc tế. Ngoài ra, để đảm bảo đầu ra, quy chế cũng yêu cầu NCS phải có công bố quốc tế trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có phản biện, hoặc công bố công trình trên các kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện trong quá trình làm NCS sinh tại cơ sở đào tạo và trước thời điểm luận án được thông qua ở đơn vị chuyên môn. Tương tự, quy chế mới quy định người hướng dẫn phải là người chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở, hoặc tham gia nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ trở lên, là tác giả hoặc đồng tác giả của các công trình công bố quốc tế thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án của NCS. Đó còn phải là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo… Đặc biệt, thời gian đào tạo TS được kéo dài hơn, tối thiểu là 3 năm (thay vì 2 năm như trước đây).
Cũng theo bà Phụng, đào tạo TS là bậc đào tạo cao nhất trong giáo dục ĐH, là đào tạo những nhà nghiên cứu, vì vậy phải chuẩn từ chất lượng đầu vào, đảm bảo cơ chế thải loại trong quá trình đào tạo và đạt chuẩn chất lượng đầu ra. “Chúng ta chấp nhận có thể giảm quy mô để tập trung vào chất lượng, đào tạo TS chỉ dành cho những người thực tài, thực lực, có mục tiêu học tập rõ ràng”, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học khẳng định.
28.11.2016 Theo SGGP
10:49 AM – 09/11/2016
Hoàn toàn được đào tạo trong nước, chưa bao giờ được ra nước ngoài dự một sinh hoạt khoa học nào, đang là nghiên cứu sinh mới bước vào năm thứ ba, nhưng Phạm Hồng Công đã có 17 bài báo quốc tế.
Nhiều ý kiến chưa tin tưởng vào chất lượng đào tạo tiến sĩ hiện nay do: đề tài nghiên cứu không xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, kết quả nghiên cứu không có điểm mới, chất lượng nghiên cứu sinh không đồng đều, một số cơ sở đào tạo tiến sĩ buông lỏng trong quản lý đào tạo tiến sĩ…
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Bộ GD&ĐT cần có biện pháp tạo chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại học, chấn chỉnh việc đào tạo tiến sĩ.
Vấn đề đặt ra là thực trạng đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay ra sao; cần có những giải pháp như thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế?.
Để trả lời câu hỏi đó, hôm nay (10/11), Bộ GD&ĐT đã tổ chức tọa đàm nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ với các khách mời là GS. Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, GS.Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước, GS. Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội, bà Vũ Lan Anh, phó hiệu trưởng ĐH Luật Hà Nội. các vấn đề liên quan đến đào tạo tiến sĩ được trao đổi thẳng thắn, cởi mở từ các nhà quản lý, các chuyên gia và các cơ sở đào tạo tại buổi tọa đàm.
Theo GS.Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, có ba nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo tiến sĩ. Thứ nhất là do chính bản thân thí sinh không xác định được mục tiêu nghiên cứu. Thứ hai là người hướng dẫn phải hướng dẫn quá đông nghiên cứu sinh và thứ ba là tại các cơ sở đào tạo tiến sĩ. “Có rất nhiều cơ sở đào tạo nghiêm túc, đúng chất lượng. Nhưng vẫn có những cơ sở đào tạo còn xuê xoa, du di nên ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo” – thứ trưởng Ga nói.
Còn theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đồng ý với quan điểm của thứ trưởng Bùi Văn Ga. Tuy nhiên GS.Đức có bổ sung thêm một nguyên nhân nữa là chất lượng đầu vào. Đầu vào ngày xưa 30 thí sinh thi chỉ chọn 2. Thứ hai là trong quá trình đào tạo có những kỳ thi rất quan trọng. Thứ ba, khi trao bằng tiến sĩ, hội đồng đó thấy nghiên cứu sinh đó có xứng đáng nhận không. “Như vậy, có khi 5 năm nghiên cứu sinh mới có bằng hoặc 7 năm mới có bằng” – GS. Đức chia sẻ.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo Tiến sĩ, theo thứ trưởng Bùi Văn Ga, trong điều kiện kinh tế của Việt Nam thì không nên đầu tư dàn trải. Do đó, số lượng tiến sĩ chưa cần nhiều nhưng phải có chất lượng.
Cũng theo thứ trưởng Bùi Văn Ga, năm 2016 Bộ GD&ĐT xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu đào tạo tiến sĩ. Dữ liệu do các cơ sở đào tạo nhập trực tuyến và gửi kèm báo cáo về Bộ GDĐT. Kết quả rà soát tổng thể các điều kiện đảm bảo chất lượng đang được kiểm tra với sự tham gia của các cơ sở đào tạo. Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang yêu cầu các cơ sở đào tạo đối chiếu, kiểm tra lần cuối cùng trước khi tiến hành công bố công khai kết quả rà soát.
10/11/2016 14:17 GMT+7
– Bộ GD-ĐT đang tiến hành sửa đổi, bổ sung quy chế đào tạo tiến sĩ nhằm nâng cao chất lượng của bậc đào tạo này. Thứ trưởng Bùi Văn Ga cho biết, quy chế mới sẽ được sửa đổi theo hướng đặt chất lượng lên hàng đầu, giảm quy mô số lượng đào tạo.
– Trong thời gian vừa qua, nhiều cơ sở đào tạo tiến sĩ chạy theo số lượng mà không để ý đến chất lượng, nhiều luận án tiến sĩ ít giá trị thực tế, không có tính khoa học. Xin ông cho biết quan điểm của Bộ GD-ĐT về hiện tượng này?
Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Trước hết phải khẳng định trong điều kiện trong điều kiện cơ sở vật chất cũng như đầu tư như hiện nay các cơ sở giáo dục đào tạo được tiến sĩ là sự cố găng lớn, cần phải đánh giá cao.
Hầu hết cơ sở đào tạo tiến sĩ hiện nay chấp hành nghiêm quy chế. Tuy nhiên, vẫn có nơi có lúc cơ sở buông lỏng quản lý chất lượng, chạy theo số lượng dẫn đến có những luận án tiến sĩ không đảm bảo chất lượng, gây bức xúc trong xã hội.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga. Ảnh: Lê Văn
– Nguyên nhân của tình trạng vàng thau lẫn lộn trong đào tạo tiến sĩ thời gian qua là do đâu, thưa ông?
– Nguyên nhân đầu tiên là do nghiên cứu sinh (NCS) ko xác định rõ động cơ khi làm nghiên cứu sinh (NCS). NCS là đào tạo ra các nhà nghiên cứu với những trí tuệ mới chứ không phải đào tạo kỹ năng làm nghề. Nhiều NCS không xác định được rõ động cơ, mục tiêu này nên dẫn đến chất lượng không đảm bảo.
Nguyên nhân nữa là người hướng dẫn NCS do chất lượng chưa đồng đều nên quá trình hướng dẫn còn hạn chế, do hạn chế nên không tiếp cận được với học thuật thế giới.
Nguyên nhân tiếp theo là về phía cơ sở giáo dục đào tạo TS. Do chưa thực hiện nghiêm quy chế nên chất lượng bị buông lỏng, một số cơ sở hội đồng không đảm bảo yếu tố khách quan.
Nguyên nhân cuối cùng do nguồn lực đầu tư của nhà nước, kinh phí đào tạo của chúng ta quá thấp, không đủ để NCS thực hiện các nghiên cứu có chất lượng.
– Được biết, Bộ GD-ĐT đang tiến hành sửa đổi, bổ sung quy chế đào tạo tiến sĩ, xin ông cho biết, quy chế đào tạo tiến sĩ trong thời gian tới sẽ được điều chỉnh theo hướng nào?
Thủ tướng vừa ký ban hành Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia. Khung cơ cấu hệ thống quy định rõ TS là nghiên cứu và thời gian đàoa tạo 3-4 năm. Khung trình độ tiêu chuẩn đầu ra tiến sĩ, được xây dựng theo khung tham chiếu ASEAN.
Hai khung trình độ này sẽ cơ sở để thực hiện sửa đổi trong quy chế đào tạo tiến sĩ cũng như thiết kế chương trình phù hợp.
Đẻ thỏa mãn các tiêu chí, NCS phải có tiêu chí đầu vào nhất định đòi hỏi cao hơn trước dây, trước hết là ngoại ngữ. Trước đây quy định ngoại ngữ là chuẩn đàu ra, giờ không phù hợp, mà phải quy định đầu vào, ngoại ngữ là công cụ cần thiết sử dụng vào nghiên cứu.
Công trình TS, luận án TS là công trình khoa học phải chứa đựng cái mới, phải đăng trên các tạp chí quốc tế để người ta bình luận, phản biện để thấy cái mới trong các luận án. Chúng ta muốn hội nhập quốc tế thì buộc phải công bố quốc tế.
Việc quy định người hướng dẫn để NCS thực hiện tốt vai trò nghiên cứu của mình thì định hướng nghiên cứu của các thầy rất quan trọng. Thầy phải đi trước, có hợp tác quốc tế mới định hướng hướng dẫn NCS thành công luận án của mình.
Để thực hiện mọi điều trên, vấn đề quy định kinh phí, chi phí đào tạo NCS cũng phải nâng lên.
Hiện chi phí 15 triệu/năm qua thấp, khó có thể đào tạo NCS bài bản. Mỗi lần nghiên cứu ra cái mới phải thí nghiệm thực hành, thực tập, buộc phải có có đầu tư nhất định. Nếu có ít ngân sách chúng ta tập trung đầu tư cho ít nghiên cứu sinh hơn, còn hơn đầu tư dàn trải.
Mục đích của việc sửa quy chế là nâng cao chất lượng, hạn chế số lượng trong điều kiện nguồn lực đầu tư có giới hạn hiện nay.
– Vậy làm thế nào để kiểm soát chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ của các cơ sở để tăng chi phí đầu tư cho hoạt động đào tạo này, thưa ông?
– Chúng tôi mong muốn xây dựng điều kiện tiếp nhận NCS. Chẳng hạn, tuyển NCS thì không tuyển theo đợt nữa mà tuyển khi trường có đề tài nghiên cứu, có tiền. Các trường có thể đăng tải thông báo tuyển NCS cho các đề tài cụ thể với điều kiện làm việc, mức đãi ngộ cụ thể để các NCS có thể nộp hồ sơ. Như vậy, thầy sẽ tìm được NCS giỏi để làm.
Hiện nay, nhiều người không có đề tài, không có tiền nhưng do yêu cầu của cơ sở nên hàng năm vẫn có chỉ tiêu tuyển sinh. Trường tuyển rồi giao cho các thầy. Quy định hiện hành cũng chỉ quy định số lượng NCS mà các PGS, GS được hướng dẫn chứ không quy định điều kiện nhận NCS cụ thể như thế nào. Chính vì thế, việc đào tạo tiến sĩ hiện nay mới nảy sinh nhiều bất cập.
Nên có định nghĩa rõ về tiến sĩ
Tại buổi tọa đàm nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ do Bộ GD-ĐT phối hợp với báo Tuổi Trẻ TP.HCM tổ chức sáng 10/11, GS Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước cho rằng, phải thể hiện rõ định nghĩa về tiến sĩ.
Theo GS Nhung, NCS khi bảo vệ bằng TS nhất định không thể không có cái gì mới, không có phát minh dù ở mức độ khác nhau.
Đồng tình với quan điểm này, GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo, ĐHQG Hà Nội cho rằng, quy mô đào tạo tiến sĩ hiện nay quá nhiều. Trong Luật Giáo dục cũng chỉ quy định tiến sĩ phải hoàn thành bao nhiêu chuyên đề, bảo vệ luận án được hội thồng thông qua.
Theo GS Đức, Bộ nên cụ thể hóa thế nào là tiến sĩ, với các tiêu chí rành mạch hơn nữa sẽ thuận lợi cho các cơ sở đào tạo thực hiện.
Cần có điều kiện đào tạo tiến sĩ
Theo ý kiến các khách mời tại tọa đàm, nhất thiết cần đặt ra điều kiện cụ thể đối với việc đào tạo tiến sĩ, từ đầu vào NCS cho tới người hướng dẫn.
PGS.TS Vũ Lan Anh (Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội)cho rằng, có tuyển sinh được người giỏi thì mới đào tạo được tiến sĩ giỏi. Trong điều kiện tuyển sinh thì khả năng nghiên cứu và yếu tố ngoại ngữ là quan trọng nhất.
Theo bà Lan Anh, với quy định hiện nay về đầu vào ngoại ngữ thì không đủ để NCS có thể đọc được tài liệu nước ngoài.
“Nếu yêu cầu NN cao hơn, chất lượng đào tạo sẽ tốt hơn” – bà Lan Anh cho hay.
GS Nguyễn Đình Đức thì cho rằng, người thầy hướng dẫn cũng rất quan trọng trong đào tạo tiến sĩ. Đó phải là những người có trình độ và phải thực sự khắt khe, không được dễ dãi trong quá trình đạo tạo.
Theo ông Đức, đối với những người thầy giỏi cũng phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng. Bằng chứng là những trường đại học ngoại công lập thu hút được nhiều người, nhiều công bố quốc tế nhờ chế độ đãi ngộ tốt. Trong khi đó, lương hướng dẫn NCS của PGS, GS chỉ 3 triệu/năm.
Chưa có nước nào đào tạo tiến sĩ rẻ như VN
GS Nguyễn Đình Đức cho rằng, việc nâng chuẩn đào tạo tiến sĩ cần phải có lộ trình để các cơ sở thích ứng. Chẳng hạn như các cơ sở đào tạo KHXH thì việc công bố quốc tế nhiều ngay sẽ rất khó.
Ông Đức cho rằng, mấu chốt trong vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ là vấn đề cơ sở vật chất và kinh phí.
Ông Đức cho biết, ở ĐHQGHN kinh phí cho đào tạo 1 NCS 1 năm chỉ 18 triệu đồng là quá thấp. Hiện tại, nhiều em giỏi đi học nước ngoài là không về nữa.
Do đó, NCS đi học phải được cơ quan trả tiền sau đó phải về phục vụ cho cơ quan. Trong khi đó, các trường cần được tháo gỡ trong cơ chế thu học phí cũng như đầu tư kinh phí.
GS Trần Văn Nhung cho rằng, chưa quốc gia nào đào tạo rẻ như vậy. Theo GS Nhung, ngoài việc chia sẻ với lo lắng của xã hội về chất lượng đào tạo tiến sĩ, Bộ GD-ĐT cùng các cơ sở đào tạo cũng phải có trách nhiệm giải thích rõ những bất cập hiện tại trong điều kiện đào tạo tiến sĩ, cần tăng cường đầu tư mạnh mẽ hơn cho bậc đào tạo này.
Theo Vietnamnet