Hội thảo “Tính toán và nghiên cứu ứng dụng vật liệu composite tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển”

Từ ngày 07/07-09/07/2023, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với Trường Đại học Nha Trang tổ chức Hội thảo “Tính toán và nghiên cứu ứng dụng vật liệu composite tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển”, tại TP. Nha Trang.

Về phía Trường ĐH Công nghệ, có GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường; GS. TS. Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Nhà trường đã tham gia và chỉ đạo hội thảo cùng các giảng viên Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông.

Với mục đích hướng tới việc đưa những ứng dụng của nghiên cứu khoa học vào thực tiễn, phát triển kinh tế biển, Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông (Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN) đã phối hợp với Viện Nghiên cứu chế tạo tàu thủy, Trường ĐH Nha Trang đồng tổ chức thành công hội thảo “Tính toán và nghiên cứu ứng dụng vật liệu composite tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển” tại TP NhaTrang, Khánh Hoà.

Trong khuôn khổ hội thảo, những nội dung hợp tác nghiên cứu thiết thực đã được các nhà khoa học từ hai phía thảo luận sôi nổi. GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ đã chia sẻ các hướng nghiên cứu về vật liệu và kết cấu tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển như vật liệu composite có cấu trúc không gian; vật liệu nano composite; ứng dụng trí tuệ nhân tạo, các vật liệu mới tiên tiến phục vụ đóng tàu, phát triển năng lượng mới và xây dựng các công trình trên biển, hải đảo. Bên cạnh đó, TS. Trần Quốc Quân – giảng viên Khoa Công nghệ xây dựng – giao thông đã trình bày về tính chất và ứng xử cơ học của vật liệu composite ba pha.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ đã chia sẻ các hướng nghiên cứu về vật liệu và kết cấu tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển

Đại diện Khoa Kỹ thuật giao thông (Trường ĐH Nha Trang), PGS. TS. Huỳnh Văn Vũ – Chủ nhiệm Khoa đã trình bày những nghiên cứu về lựa chọn kiểu kết cấu khung lồng nuôi thủy sản trên biển bằng vật liệu composite và TS. Đỗ Văn Tá chia sẻ phương pháp chế tạo các bề mặt composite siêu kỵ nước sử dụng polydimethyl siloxane và các hạt nano silica. Ngoài ra, ThS. Huỳnh Tấn Đạt – Trưởng phòng thiết kế (Viện Nghiên cứu chế tạo tàu thủy) trình bày báo cáo về những thành tựu của Viện trong thiết kế, chế tạo tàu khách cao tốc bằng composite; TS. Phạm Văn Thu – Phó Viện trưởng trình bày những kết quả nghiên cứu, tính toán sự ổn định của tấm Sandwich dùng trong chế tạo kết cấu tàu thủy.

Phát biểu tại hội thảo, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ và TS. Đinh Đức Tiến – Viện Trưởng Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy đã đánh giá cao thành công của Hội thảo, cũng như những cơ hội mới hợp tác sâu rộng trong nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao khoa học và công nghệ, đào tạo giữa Trường ĐH Công nghệ và Trường ĐH Nha Trang.

Qua hội thảo này, GS.TS Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ khẳng định sự đồng hành và ủng hộ mạnh mẽ của nhà trường trong việc tiên phong triển khai các hướng nghiên cứu tiên tiến, mũi nhọn ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế biển. Trong những năm qua, nhiều lĩnh vực của nhà trường đã vươn lên xếp hạng trong top 400-600 của thế giới, trong đó có lĩnh vực Cơ kỹ thuật (top 400-500), Điện – Điện tử (top 400-500) và Khoa học máy tính (top 500-600). Đặc biệt lĩnh vực Kỹ thuật – Công nghệ đã vươn lên xếp hạng 386 thế giới trong bảng xếp hạng QS năm 2022.

GS.TS. Chử Đức Trình – Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ phát biểu tại hội thảo

Hội thảo “Tính toán và nghiên cứu ứng dụng vật liệu composite tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế biển” thành công tốt đẹp, mở ra những cơ hội hợp tác mới cho Trường Đại học Công nghệ với các trường đại học và các doanh nghiệp trong việc gắn kết đào tạo và nghiên cứu với thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kinh tế biển và hải đảo.

(UET-News)

Tiến sĩ Phạm Hồng Công: Tiếp nối thành công của “Người thắp lửa”

Phạm Hồng Công, cái tên không còn xa lạ với giới khoa học quốc tế và Việt Nam, hiện đang là thực tập sinh sau tiến sĩ đồng thời cũng là giảng viên kiêm nhiệm tại Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Hiện nay, Phạm Hồng Công đã có hơn 30 bài báo được xuất bản trên các tạp chí quốc tế như ISI/Scopus.

Cơ duyên đến với nghiên cứu khoa học

Năm 2014, Phạm Hồng Công tốt nghiệp hạng xuất sắc bậc đại học và là thủ khoa đầu ra của ngành Cơ kỹ thuật, Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Với thành tích học tập và nghiên cứu tốt, Công đã được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh trường và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ vào năm 2018.

TS. Phạm Hồng Công cùng GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Phạm Hồng Công bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học từ khi là sinh viên năm thứ 2 tại Trường ĐH Công nghệ. Cơ may đến khi Công được GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, một trong những nhà khoa học uy tín của Việt Nam và quốc tế trong lĩnh vực Cơ học và vật liệu composite. GS. Nguyễn Đình Đức chính là “người thắp lửa” cho hoạt động nghiên cứu khoa học của Công và nhiều học trò khác.

Công còn nhớ rất rõ khoảnh khắc vào cuối năm thứ 2 đại học, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức lên lớp và hỏi: “Lớp này ai điểm toán cao nhất?”, các bạn chỉ Công. Thầy lại hỏi “Lớp này ai điểm tổng kết cao nhất?”, các bạn vẫn chỉ Công. Thế là thầy Đức gặp Công cùng với một nhóm sinh viên nữa để bắt đầu giao đề tài nghiên cứu khoa học. Thầy bắt đầu giao nhiều bài tập chuyên sâu và sau một thời gian các bạn cùng lớp không theo được đã xin nghỉ chỉ còn mình Công tham gia nghiên cứu, cũng chính nhờ sự tiếp xúc với môi trường nhóm nghiên cứu từ rất sớm đã tạo động lực cho Công có niềm say mê nghiên cứu khoa học ngay từ lúc còn là sinh viên.

Với sự tận tình, truyền nhiệt huyết của người thầy GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cùng với sự cố gắng lỗ lực của bản thân, đề tài nghiên cứu của công đã được giải nhất nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN và được đăng trên tạp chí thuộc danh mục ISI. Môi trường học tập của Trường Đại học Công nghệ đã cho Công gặp những người truyền lửa và để Công tiếp tục những đam mê nghiên cứu sau đại học. Công đã quyết định chuyển tiếp nghiên cứu sinh tại Trường ĐH Công nghệ và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi mới 27 tuổi.

Thành công đến từ “Người truyền lửa” và nhóm nghiên cứu

Việc tham gia nghiên cứu khoa học và tham gia nhóm nghiên cứu sẽ mang lại nhiều lợi ích cho bản thân cũng như công việc sau này: học hỏi được nhiều kiến thức khoa học chuyên sâu, rèn luyện kỹ năng thực hành, biết cách giải quyết các vấn đề khoa học nằm ngoài chương trình đào tạo. Từ đó, người học có thể phát triển được thế mạnh và khả năng nghiên cứu của bản thân, biết cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, phân tích số liệu, giải thích kết quả và viết báo cáo tổng kết.

Điều thuận lợi nhất đối với môi trường nhóm nghiên cứu là luôn được các giảng viên hướng dẫn tìm và cung cấp tài liệu tham khảo như sách, bài báo khoa học từ thư viện, cơ sở dữ liệu trực tuyến; có cơ hội hợp tác, giao lưu với các nhà khoa học trong nước và quốc tế đến trao đổi seminar, qua đó giúp NCS, học viên cao học và sinh viên có cơ hội được tiếp xúc, trao đổi và học hỏi kiến thức. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu trở thành môi trường để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ học viên cao học và nghiên cứu sinh như Công, là môi trường để thu hút các nhà khoa học đầu ngành trong và ngoài nước đến trao đổi và làm việc.

Theo Công, may mắn lớn nhất là được gặp thầy Nguyễn Đình Đức, được tham gia nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu tiên tiến của Giáo sư, một môi trường nghiên cứu khoa học uy tín của cả nước. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là người đã hướng dẫn không chỉ có những bài giảng hay với chuyên môn sâu mà quan trọng hơn, thầy đã “thắp lên” ngọn lửa đam mê khoa học, tình yêu ngành nghề ở các học trò của mình, khơi dậy tiềm năng sáng tạo và sự tự tin cho thế hệ trẻ. Được GS Đình Đức tận tình dìu dắt, nhiều sinh viên đã trở nên say mê học tập nghiên cứu, sau khi tốt nghiệp đại học đều trở thành sinh viên giỏi và xuất sắc và đã có bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín.

Trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại ĐHQGHN, cá nhân Công đã cảm nhận được vai trò rất lớn của người thầy, không chỉ động viên tinh thần mà còn giúp đỡ nhiều sinh viên giỏi có hoàn cảnh khó khăn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu. Công tin rằng, tấm lòng nhân ái, sự say mê khoa học, tin yêu cuộc sống, sự động viên, chia sẻ của các giảng viên trong ĐHQGHN luôn là sự động viên, khích lệ các thế hệ nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên vững vàng ý chí và nghị lực để tiếp bước trên con đường khoa học.

Chính sách hỗ trợ, khích lệ và tạo động lực cho các hoạt động nghiên cứu

Năm 2021, ĐHQGHN đã ban hành chính sách cấp học bổng cho tiến sĩ, thực tập sinh sau tiến sĩ theo Quyết định số 3688/QĐ-ĐHQGHN. Chính sách này có ý nghĩa và tác động rất lớn, tạo nên những đột phá trong nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN. Quyết định này hỗ trợ học bổng lên đến 100 triệu đồng/năm cho các nghiên cứu sinh và 120 triệu đồng/năm cho thực tập sinh trẻ có năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế xuất sắc. ĐHQGHN là cơ sở giáo dục đại học công lập đầu tiên trong cả nước tiên phong thiết lập và cấp học bổng cho thực tập sinh sau tiến sĩ.

TS Phạm Hồng Công là một nhân tài được trưởng thành từ vùng quê nghèo ở Vĩnh Phúc và mồ côi cha từ bé. Nhờ có GS. Đình Đức truyền lửa, tận tâm dìu dắt đã đam mê theo nghiệp nghiên cứu khoa học, bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ năm 2018 và trưởng thành như ngày hôm nay.

Vinh dự và tự hào khi là một trong những thực tập sinh sau tiến sĩ được ĐHQGHN lựa chọn cấp học bổng duy trì, đồng hành trên chặng đường làm khoa học của mình, Công cho biết, đây là nguồn động lực to lớn cả về vật chất và tinh thần để bản thân Công và các thực tập sinh được nhận học bổng có thể dành thời gian, tâm sức cho các công trình khoa học và vững tâm theo đuổi con đường nghiên cứu khoa học. Cá nhân Công mong muốn chương trình sẽ phát triển, mở rộng và lan toả mạnh mẽ, góp phần chắp cánh cho các nghiên cứu sinh, thực tập sinh có năng lực nghiên cứu xuất sắc tham gia học tập nghiên cứu tại ĐHQGHN cũng như thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Dấn thân để mở đường

Giao tiếp hằng ngày, GS Nguyễn Đình Đức trong cảm nhận của nhiều sinh viên và đồng nghiệp là người sắc sảo. Nhưng trong nghiên cứu, Giáo sư như “thoát xác” để được trở về đúng với bản ngã của mình.

Cảm ơn cuộc đời đã run rủi

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban đào tạo, Đại học (ĐH) Quốc gia Hà Nội là một trong số những nhà khoa học tôi tiếp xúc và làm việc từ những ngày mới vào nghề và cũng đã chứng kiến không ít lần ông “xù lông xù cánh”. Mới đây nhất chính là việc Bộ GD&ĐT ban hành quy chế đào tạo tiến sĩ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Dấn thân để mở đường ảnh 1
GS Nguyễn Đình Đức (người mặc áo xanh) cùng các sinh viên

Là người tham gia góp ý các lần dự thảo, GS Nguyễn Đình Đức cảm thấy sốc khi văn bản chính thức lại “hạ chuẩn” đào tạo tiến sĩ. Không nể nang hay chờ Bộ thanh minh, GS Đức “vỗ” thẳng: “So với Quy chế cũ, chuẩn đầu ra của Quy chế đào tạo tiến sĩ mới là bước thụt lùi quay trở về như quy chế tiến sĩ cách đây hơn 20 năm về trước”.

Rồi đến chuyện 30 điểm vẫn trượt ĐH, trong khi Bộ GD&ĐT ra sức giải thích các lý do thì ông chỉ nói ngắn gọn: 30 điểm trượt ĐH là bình thường. Bởi ông nhìn thẳng vào những con số, nhìn thẳng vào bản chất để đưa ra mệnh đề kết luận mà không cần phải vòng vo. Chuyện này cũng không phải lần đầu, hơn nữa, ngay tại trường thành viên của ĐH Quốc gia Hà Nội, nơi ông trực tiếp quản lý về mặt đào tạo, điểm chuẩn năm 2020, 2021 có ngành 30 điểm.

Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên gặp GS Nguyễn Đình Đức tại tòa nhà E3, ĐH Quốc gia Hà Nội. Khác với những phát ngôn gây sốc khiến thiên hạ rối bời, gay gắt tranh luận, ở đây ông hồ hởi nói về những học trò được ông “kèm” sát, bồi dưỡng từ khi còn học ĐH lên đến nghiên cứu sinh.

Đầu những năm 2010, tiến sĩ trong nước có bài báo quốc tế là một kỳ tích, còn học trò của GS Đức vừa chân ướt chân ráo từ ĐH tuyển thẳng lên làm nghiên cứu sinh đã có vài bài. GS tự hào lắm nên rối rít khoe như trẻ thơ nhận được quà mẹ về chợ.

Nhưng lúc đó, ĐH Quốc gia chưa có nhiều phòng lab, phòng thí nghiệm như bây giờ, ông đành khoe những bản vẽ mới nghiên cứu ra, khoe những chiếc máy tính được cho là hiện đại của ĐH Quốc gia Hà Nội nhưng dường như đã quá lạc hậu so với thế giới.

Nhìn GS Nguyễn Đình Đức như một bà mẹ xòe đôi cánh để khoe đàn con, đứa nào cũng như công, như phượng, nào là Hoàng Văn Tùng, Trần Quốc Quân, Phạm Hồng Công, Phạm Toàn Thắng, Vũ Thị Thùy Anh, Vũ Đình Luật, Nguyễn Trọng Đạo, Hoàng Văn Tắc, Vũ Đình Quang, Vũ Minh Anh, Phạm Đình Nguyện. Trong số này, tôi ấn tượng với Phạm Hồng Công, một tiến sĩ made in Việt Nam với 33 bài báo khoa học.

Nói về chặng đường đã gắn bó gần nửa thế kỷ với ngành giáo dục, đến nay cảm xúc của GS Nguyễn Đình Đức tuôn trào: “Cảm ơn cuộc đời đã run rủi để đến ngày hôm nay tôi trở thành nhà giáo, nhà khoa học; hạnh phúc và tự hào về điều đó”.

Đỗ đầu kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh của Bộ ĐH (Bộ GD&ĐT ngày nay), GS Nguyễn Đình Đức được cử sang làm luận án tiến sĩ tại trường ĐH Tổng hợp Quốc gia Matxcơva mang tên Lômônôxốp (MGU). Tại đây, ông đã bảo vệ thành công xuất sắc Luận án tiến sĩ toán lý về các tiêu chuẩn bền mới cho vật liệu composite khi mới 27 tuổi. Đây cũng là hạnh phúc lớn nhất mà ông nhận được khi đóng góp vào sự phát triển của khoa học và góp phần đưa trường phái vật liệu và kết cấu composite tiên tiến của Việt Nam đến cộng đồng khoa học quốc tế.

GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ đã dấn thân vào con đường khoa học, không ai nghĩ mục đích là để xếp hạng. Những kết quả đánh giá xếp hạng nhà khoa học của thế giới với cá nhân ông trong thời gian qua không phải là ngẫu nhiên hay gặp may, mà là sự ghi nhận khách quan những đóng góp và kết quả làm việc miệt mài và bền bỉ trong suốt gần 40 năm qua và nhóm nghiên cứu.

“Đằng sau mỗi thành công của nhà khoa học là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, nhiều khi phải chấp nhận cả thiệt thòi và hy sinh. Có thể khẳng định trong khoa học chân chính, không có thành công đích thực nào là đến một cách dễ dàng, không phải vượt qua khó khăn, thử thách”, GS Nguyễn Đình Đức chia sẻ

Không thể mãi “liệu cơm gắp mắm”

Không quá băn khoăn về những gì đang được xã hội đặt ra liên quan đến bài báo khoa học, liên quan đến xếp hạng, GS Nguyễn Đình Đức luôn xác định mục tiêu của mình trong thời gian tới đó là hướng đến những người trẻ. Thế hệ ông sắp trở thành lịch sử để nhường chỗ cho thế hệ trẻ khẳng định bản thân. Thẳng tính, luôn quyết liệt đến cùng để bảo vệ quan điểm khoa khoa học, GS Nguyễn Đình Đức cho biết rất vui khi vừa qua ĐH Quốc gia Hà Nội đã có chính sách hỗ trợ nghiên cứu sinh làm tiến sĩ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Dấn thân để mở đường ảnh 2
GS Nguyễn Đình Đức cảm ơn những run rủi của cuộc đời đã đưa ông đến với nghề giáo, nhà nghiên cứu

Với kinh nghiệm của người đi trước, GS Nguyễn Đình Đức cho rằng điều mà trí thức trẻ cần là môi trường làm việc, điều kiện nghiên cứu tốt, được tuyệt đối tin tưởng và trọng dụng. Mạnh dạn giao phó những việc lớn, việc khó để thử thách thì tuổi trẻ càng có điều kiện để cống hiến và phát huy. Nhưng khoảng trống mà người trẻ đang thiếu đó chính là sự bền bỉ và kiên trì.

Ngày nay, trí thức trẻ hầu như đều được đào tạo rất bài bản, rất năng động; nắm bắt và thích ứng nhanh với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật; dám nghĩ dám làm, có khả năng hội nhập cao, khát khao đổi mới và có đầy đủ kiến thức và sức trẻ; nhiệt huyết để cống hiến, sáng tạo và tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Lợi thế này những người thuộc thế hệ như GS Nguyễn Đình Đức không có được. Vì vậy, họ có nhiều thuận lợi hơn.

Để thúc đẩy giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học, người thầy phải là tấm gương say mê khoa học. Người thầy phải dìu dắt, truyền cảm hứng và thắp lên ngọn lửa đam mê khoa học, đam mê sáng tạo cho các học trò. Rất nhiều đêm, các phòng lab của ĐH Quốc gia Hà Nội luôn sáng đèn khi nhóm học trò của GS Nguyễn Đình Đức đang trăn trở với những nghiên cứu, những phát hiện mới.

Nói thì vậy, nhưng GS Nguyễn Đình Đức cũng nhìn nhận khó khăn trước mắt đối với các nhà khoa học Việt Nam đó là kinh phí. Hiện nay, vẫn đang phải quen với cái khó “liệu cơm gắp mắm” khi làm nghiên cứu.

GS Nguyễn Đình Đức tin nếu được quan tâm đầu tư hơn, có cơ chế chính sách tốt, minh bạch và trọng dụng nhân tài, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế, dám đi vào những lĩnh vực mũi nhọn, thì khoa học công nghệ của Việt Nam sẽ cất cánh và sẽ thực sự sẽ trở thành động lực cho sự phát triển đột phá của đất nước.

“Tôi tin tưởng và mong các nhà khoa học trẻ tiếp nối thế hệ cha anh, luôn nỗ lực, cần cù bền bỉ, học hành siêng năng, nghiên cứu thực chất, rèn đức luyện tài, làm việc gì cũng đến nơi đến chốn; có ý chí và dám đương đầu vượt qua những khó khăn thách thức; gắn học với hành, gắn nghiên cứu với thực tiễn và phải hội nhập được, sánh vai với các bạn bè đồng nghiệp quốc tế”, GS Nguyễn Đình Đức vừa nói vừa tràn đầy hy vọng.

GS Nguyễn Đình Đức đã công bố trên 300 công trình khoa học, trong đó có 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Trong 3 năm liên tiếp 2019, 2020, 2021 ông lọt vào top 100.000 nhà nghiên cứu có chỉ số trích dẫn khoa học ảnh hưởng hàng đầu thế giới theo cơ sở dữ liệu Scopus. Năm 2021, theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, ông tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5.949 thế giới, và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực kỹ thuật.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 1.

Chào GS! Xin chúc mừng GS mới đây được tạp chí PloS Biology của Mỹ tiếp tục xếp hạng đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, là 1 trong 5 nhà khoa học vào top 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng trích dẫn hàng đầu thế giới. GS có thể chia sẻ cảm xúc lúc này?

– Sau khi nhận được thông tin tôi hoàn toàn bất ngờ vì thực sự làm khoa học không ai nghĩ đến việc để xếp hạng. Kết quả này là nguồn cổ vũ, động viên rất lớn cho tôi và các thế hệ học trò vững tin vào con đường khoa học mình đã chọn, đồng thời tự tin sánh bước với các đồng nghiệp quốc tế.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 2.

Năm nay có 28 nhà khoa học Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 10.000 nhà khoa học có trích dẫn ảnh hưởng nhất thế giới này. Theo GS, các nhà khoa học Việt Nam so với thế giới thế nào?

– Khi chúng tôi đi du học nước ngoài, kết quả học tập và nghiên cứu của người Việt Nam cũng không thua bất cứ người nước ngoài nào. Có thể nói trí tuệ của người Việt rất thông minh. Ngay cả trên đấu trường khoa học quốc tế, chúng ta tự hào có GS Ngô Bảo Châu đoạt giải Fields. Nhiều giáo sư người Việt khác cũng đạt được những giải thưởng danh giá khác về khoa học. Điều đó cho thấy năng lực trí tuệ và sáng tạo của người Việt Nam không thua kém gì so với thế giới.

Công bố quốc tế của Việt Nam, nếu như cách đây 10-15 năm thuộc hạng cuối của các nước trong khu vực, nhưng năm vừa rồi, theo công bố của Bộ KHCN đã vươn lên đứng thứ 3 sau Singapore, Malaysia và thứ 49 của thế giới. 2 ĐHQG cùng một số đại học khác cũng đã có thứ hạng khá cao trong các bảng xếp hạng đại học của khu vực và thế giới.

Nói như vậy để thấy giáo dục đại học và khoa học công nghệ Việt Nam đang ngày càng phát triển, hội nhập được các tiêu chí cũng như chuẩn mực của thế giới.

Theo GS, tố chất cần có của người làm khoa học là gì?

– Từ những trải nghiệm của bản thân sau chặng đường dài gần 40 năm, tôi thấy để làm khoa học cần có sự đam mê và kiên trì. Trên con đường làm khoa học rất nhiều khó khăn, thử thách về cuộc sống, thiếu thốn cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm. Nếu như mình nản chí thì rất khó để đến đích. Ngoài ra, làm khoa học phải có ý thức hội nhập, bắt nhịp với các hướng nghiên cứu hiện đại của quốc tế và xu thế của thời đại, vì đây là những yếu tố tiên quyết để các kết quả nghiên cứu của mình có tầm ảnh hưởng, được lan tỏa trong cộng đồng quốc tế.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 3.
GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 4.

Quan điểm của GS về việc các nhà khoa học không ở Việt Nam mà làm việc ở nước ngoài, đấy có gọi là chảy máu chất xám không?

– Những năm gần đây nhờ có sự tự chủ ở các trường đại học, có một số trường công lập và một số trường đại học dân lập, bán công đã tạo được nguồn lực để thu hút nhân tài về nước làm việc rất thành công, thậm chí thu hút cả người nước ngoài, các GS Việt kiều về nước làm việc, hạn chế được chảy máu chất xám.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 5.

Tuy nhiên, với cá nhân tôi, tôi cho rằng chúng ta cũng nên hiểu chảy máu chất xám một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Đã là người Việt Nam thì ở đâu cũng đều hướng về đất nước, hướng về nguồn cội với tình yêu tha thiết và đều có thể đóng góp, xây dựng tổ quốc. Bối cảnh thế giới ngày càng hội nhập, nhất là trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay, hầu như không còn hạn chế về biên giới trong hợp tác nghiên cứu nên điều kiện đóng góp cho đất nước dẫu đang ở nước ngoài ngày càng nhanh và hiệu quả hơn.

Nếu như một tri thức làm việc ở nước ngoài vẫn hướng về quê hương, đem tài năng cống hiến cho khoa học, làm rạng danh cho tổ quốc, đồng thời lại đem được kiến thức, kinh nghiệm, nhiệt tình của mình hợp tác với các nhà khoa học trong nước, đóng góp hiệu quả, có trách nhiệm với đất nước thì công lao của họ cũng không hề nhỏ, rất đáng ghi nhận và biểu dương.

Vậy còn GS, sau nhiều năm học tập và làm việc ở nước ngoài, giành cho mình nhiều thành công, lý do nào GS trở về Việt Nam làm việc từ năm 2004?

– Những năm tôi tốt nghiệp xong bảo vệ luận án tiến sĩ, nước ta còn rất nghèo và tôi có cơ hội làm việc postdoc ở những nước phát triển. Nhưng trước hết là tình cảm sâu nặng với gia đình và quê hương, sau là lĩnh vực nghiên cứu của tôi về vật liệu mới composite đang được ứng dụng rất mạnh mẽ trên thế giới. Khi đó 2 giáo sư – những người thầy của tôi, là 2 nhà khoa học lớn, một ở ĐH Tổng hợp Lomonoxop (MGU) và một ở Viện Hàn lâm Khoa học Nga – đã khuyên tôi về nước làm việc để đem kiến thức và tuổi trẻ của mình phục vụ Tổ quốc.

Hướng nghiên cứu của tôi là vật liệu mới rất bền và siêu bền. Cá nhân tôi cũng nhận thức được những vật liệu mới này rất quan trọng trong việc xây dựng và kiến thiết đất nước nên tôi chỉ có mong muốn là làm sao những kiến thức mình đã học được có thể phục vụ đất nước, biến ước mơ thành hiện thực. Lúc đó tuổi đời còn trẻ, có nhiều ước mơ cháy bỏng và kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu quê nhà sâu nặng khiến cho tôi sau rất nhiều trăn trở và cân nhắc đã quyết định trở về.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 7.

Vậy sự trở về đó của GS có gặp khó khăn gì không?

– Khi trở về tôi gặp rất nhiều khó khăn vì sống ở nước ngoài thời gian dài nên cần có thời gian để thích nghi.

Tuổi đời khi đó còn trẻ, mới bảo vệ luận án về nước nên cần thời gian và sự nỗ lực để khẳng định mình với cộng đồng khoa học trong nước.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 6.

Nói thực lòng, là mức lương quá thấp, không đủ sống. Tôi nhớ tháng lương đầu tiên tôi được nhận sau thời gian dài ở nước ngoài về năm 2001 là 341.000 đồng, tương đương khoảng 30 đô la, trong khi các con còn bé và cuộc sống có rất nhiều thứ phải trang trải.

Muôn vàn khó khăn ban đầu về cơ sở vật chất. Phòng thí nghiệm về composite khi đó gần như “zero”, nên dù có rất nhiều ước mơ hoài bão song kinh phí từ nghiên cứu đến triển khai ứng dụng đều rất ít, không biết bắt đầu từ đâu và làm như thế nào. Tuy nhiên bài học và tấm gương sáng của các thế hệ trí thức đi trước như GS Trần Đại Nghĩa, GS Phạm Ngọc Thạch… – trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và gian khổ hơn nhiều lần mà còn cống hiến được rất tốt, giúp cho tôi có nghị lực và niềm tin để vượt qua khó khăn.

Nhưng đúng là “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, việc gì cũng vậy, muốn thành công cần có sự am hiểu kỹ và kiên trì. Từ những buổi đầu tiên gây dựng nhóm nghiên cứu, tìm hiểu thực tế Việt Nam đến hợp tác nghiên cứu với các đồng nghiệp trong và ngoài nước, lại được sự động viên của gia đình, đồng nghiệp, dần dần tôi đã từng bước vượt qua được những khó khăn. Tôi tìm được hướng đi cho mình, xây dựng thành công nhóm nghiên cứu mạnh về Vật liệu và Kết cấu tiên tiến ở ĐHQGHN và đã phát huy được năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học của mình.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 8.

Theo GS, Việt Nam hiện nay cần làm gì để thu hút nhân tài về nước nghiên cứu khoa học?

– Theo tôi, muốn thu hút nhân tài, trước hết phải có chính sách sử dụng đúng. Nếu được trọng dụng thì sẽ thu hút được nhân tài và các nhân tài sẽ có động lực để phát huy vượt bậc tài năng, sức sáng tạo, sức cống hiến của mình.

Trí thức rất cần được lắng nghe, được tạo điều kiện để nghiên cứu và phát huy tài năng. Vì vậy, trong mỗi cơ quan, tổ chức, hãy đừng để nhân tài nào bị bỏ sót, đừng để sáng kiến nào bị lãng quên.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 9.

Bên cạnh các chính sách của Nhà nước, các trường đại học cần có các chính sách riêng của từng trường để thu hút và tạo điều kiện cho các nhà khoa học thực hiện hoài bão của mình.

Thứ 2, muốn có chính sách đãi ngộ tốt thì các trường cần có nguồn lực. Tự chủ đại học chính là giải pháp tốt, phù hợp để các trường có thể phát huy mọi nguồn lực, từ đó mới có thực lực để thu hút chất xám không chỉ là người Việt Nam mà còn với người nước ngoài. Thời đại bây giờ là cạnh tranh, ở đâu có chất xám, có trí tuệ thì sẽ vươn lên.

Thứ 3, cần hoàn thiện thể chế và chính sách hiện có. Nhà nước cần tạo điều kiện cởi mở, thông thoáng hơn phương thức chọn và giao các nhiệm vụ KHCN cũng như đổi mới các quy định thanh quyết toán với các đề tài. Trong hoạt động KHCN rất cần nhất sự minh bạch, các tiêu chí định lượng để đánh giá hiệu quả và năng suất hoạt động KHCN theo các chuẩn mực quốc tế.

Cần chú trọng phát hiện các tài năng trẻ, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, tập trung ưu tiên đầu tư cho các hướng nghiên cứu hiện đại,… đi đôi với mạnh dạn đãi ngộ và tôn vinh các trí thức tài năng. Đó chính là động lực để thúc đẩy các nhà khoa học phấn đấu và thúc đẩy sự phát triển tiềm lực khoa học của nước nhà.

Ngay với bảng xếp hạng này, bên cạnh những giáo sư nổi tiếng, chúng ta có thể thấy có những tiến sĩ rất trẻ. Số lượng trí thức người Việt trong bảng xếp hạng này ngày càng tăng và càng có thêm nhiều gương mặt mới, trẻ tuổi. Đấy là tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự tăng trưởng về chất lượng và số lượng tiềm lực KHCN của Việt Nam.

Nhà khoa học cống hiến không vì để xếp hạng, nhưng được đánh giá, xếp hạng trong các bảng xếp hạng có uy tín một cách công bằng và khách quan là một niềm tự hào, vinh dự. Nếu không có cơ sở dữ liệu để đánh giá, định lượng kết quả nghiên cứu của nhà khoa học và ảnh hưởng của nó theo các chuẩn mực quốc tế, chúng ta sẽ không biết được mình đang ở đâu so với các đồng nghiệp quốc tế. Biết bao giờ các bạn trẻ tài năng và nỗ lực vượt bậc mới được thừa nhận, được tôn vinh để từ đó có thêm động lực và niềm tin tiếp tục phấn đấu, dấn thân vào con đường nghiên cứu khoa học đầy gian truân.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 10.
GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 11.

Tình trạnh các công trình khoa học nghiên cứu rồi “đút ngăn kéo” tại Việt Nam được nhiều lần nhắc tới vì không chỉ gây lãng phí tài nguyên chất xám mà còn ngân sách của quốc gia… Ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?

– Giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao trí thức và công nghệ vào thực tiễn là chức năng của cơ sở giáo dục đại học, là trách nghiệm, nghĩa vụ của các giảng viên – nhà khoa học trong các trường đại học.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 12.

Đã là giảng viên đại học thì đương nhiên phải nghiên cứu khoa học, sáng tạo tri thức. Thông qua nghiên cứu khoa học đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Quốc gia nào cũng vậy, trong trường đại học sẽ luôn có những nghiên cứu cơ bản. Những nghiên cứu này góp phần phát hiện các quy luật khách quan, bản chất của sự vật, hiện tượng, có thể không phục vụ trực tiếp và ngay cho xã hội, nhưng lại đóng góp cho sự phát triển của khoa học. Vì vậy, đương nhiên sẽ có những đề tài thuộc dạng nghiên cứu cơ bản. Lịch sử đã cho thấy có nhiều nghiên cứu, phát hiện của các nhà khoa học sau nhiều năm mới được áp dụng vào cuộc sống.

Mặt khác, ở tất cả các quốc gia phát triển, các đề tài thường được đặt ra để nghiên cứu giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp. Chìa khóa công nghệ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển sản phẩm mới và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực, là chiếc đũa thần để phát triển đất nước thì từ bài học của các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy các đề tài KHCN phải gắn kết chặt chẽ với thực tiễn.

Để tránh hiện tượng các đề tài thực hiện xong “cất ngăn kéo”, gây lãng phí cho ngân sách quốc gia, theo tôi chúng ta cần hoàn thiện thể chế chính sách về khoa học công nghệ; hỗ trợ và đề cao tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu, trong các trường đại học; gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo với nghiên cứu, gắn kết mục tiêu, nội dung nghiên cứu với nhu cầu của doanh nghiệp; đồng thời có cơ chế để đẩy mạnh gắn kết các hoạt động của doanh nghiệp với nhà trường, với các nhà khoa học; đổi mới phương thức tuyển chọn, giao nhiệm vụ KHCN; lấy tiêu chí giải quyết các yêu cầu thực tiễn là tiêu chí quan trọng nhất để tuyển chọn và đánh giá đề tài.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 15.
GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 13.

Theo ông, ngành giáo dục Việt Nam cần làm gì để giá trị của giáo dục là thực chất chứ không phải đối phó, thành tích như hiện nay?

– Dường như bây giờ kiểm tra đánh giá có phần dễ dãi hơn trước. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi và xuất sắc trong các trường THPT, các trường đai học hiện nay khá lớn.

Để tránh chạy theo bệnh thành tích, để thực hiện yêu cầu “học thật, thi thật, nhân tài thật”, thì chúng ta cần phải thực hiện đánh giá trình độ và năng lực người học một cách thực chất, từ khâu tuyển sinh đến khâu tổ chức, quản lý đào tạo, kiểm tra đánh giá đầu ra và sử dụng.

Cần xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá, chuẩn đầu ra của giáo dục hội nhập với các tiêu chí của khu vực và thế giới.

Sử dụng đúng người đúng việc, đúng tài năng, kiểm tra đánh giá nghiêm túc, công bằng và khách quan thì sẽ có nhân tài thật, thi thật, học thật.

Chính sách để thúc đẩy nghiên cứu khoa học ngay từ các trường đại học ở nước ta có khác gì các quốc gia khác? Theo GS đã đủ khuyến khích và cần cải tiến gì?

– Nhà nước ta từ trước đến nay luôn coi giáo dục là quốc sách và KHCN là động lực cho sự phát triển. Nhất là từ khi có Luật Khoa học Công nghệ cũng như Luật Giáo dục đại học thì công tác hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học được đặc biệt quan tâm. Nhờ đó, KHCN Việt Nam đã giải quyết nhiều vấn đề khoa học quan trọng, đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 14.

Tuy nhiên, trong hoạt động KHCN cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Nguồn lực thiếu, đầu tư nhỏ giọt,… Cơ sở pháp lý của chúng ta khá đầy đủ nhưng đôi chỗ lại chồng chéo và nhiều chính sách hay chưa đi vào cuộc sống.

Ví dụ như ở Nhật Bản hay Hàn Quốc, với một nhóm nghiên cứu mạnh, công bố khoảng 10-15 bài quốc tế, đào tạo khoảng 10 nghiên cứu sinh mỗi năm, sẽ được tài trợ cho nghiên cứu với kinh phí khoảng từ 1,5-3 triệu đô la (tương đương 34-68 tỷ đồng). Trong khi ở Việt Nam, kinh phí đầu tư cho KHCN và các nhóm nghiên cứu còn rất thấp.

Ngoài ra, tôi cho rằng phải đẩy mạnh NCKH gắn kết với doanh nghiệp để thực hiện những nhiệm vụ lớn. Bên cạnh đó, hiện nay thể chế đã khá tốt nhưng nhiều chính sách hay chưa đi vào cuộc sống nên phải tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục và cần có chính sách đầu tư thỏa đáng, mạnh mẽ hơn nữa cho KHCN. Đặc biệt các trường đại học hiện nay phải coi đổi mới sáng tạo là tiêu chí, là mục tiêu và cũng sẽ là nguồn lực cho sự phát triển.

Có một điểm chung rất giống với nước ngoài, đó là nhóm nghiên cứu chính là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo trong nhà trường. Việc xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học có tính tất yếu. Nhóm nghiên cứu vừa là phương thức, vừa là mục tiêu phát triển của các trường đại học nghiên cứu tiên tiến trên thế giới, trong đó với Việt Nam không là ngoại lệ. Để có nhiều nhà khoa học xuất sắc, trong thời gian tới, các trường đại học Việt Nam cần quan tâm xây dựng và đầu tư cho việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh nhiều hơn nữa.

So sánh thu nhập, các chế độ đãi ngộ… đối với các nhà khoa học của ta so với các nước khác thì như thế nào thưa GS?

– Ở Mỹ, các giáo sư hay những giảng viên ở cấp đại học là nghề nghiệp có mức lương cao và được tôn trọng hàng đầu trong giới hàn lâm, tri thức. Lương của một giáo sư đại học ở Mỹ trung bình khoảng 100.000 USD/năm, với các trường đại học lớn uy tín, lương giáo sư từ 150-300.000 USD/năm.

Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung, lương và đầu tư, đãi ngộ cho nhà khoa học ở nước ta còn thấp hơn nhiều so với nhiều nước phát triển trên thế giới.

Mới đây, một số trường đại học tự chủ đã có nguồn lực để thu hút chất xám, thu hút nhân tài. Các GS, trí thức giỏi ở những trường này được đã ngộ khá tốt và đã có mức lương khá cao so với mặt bằng chung ở Việt Nam.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 15.

Thưa GS, làm khoa học ở nước ta bây giờ có nghèo không?

Như tôi đã nói ở trên, mặt bằng chung mức lương của trí thức nước ta còn thấp so với các nước phát triển. Và có một thực tế là nếu so sánh lương sinh viên mới ra trường làm cho doanh nghiệp có thể sẽ nhiều hơn mức lương của thầy – 1 tiến sĩ trẻ.

Tuy nhiên, bên cạnh mức lương cơ bản, nhà khoa học có thể tham gia giảng dạy, các đề tài nghiên cứu và thu nhập được cải thiện. Hiện nay có một số trường đại học tự chủ và các giảng viên đã được trả lương khá tốt như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Quốc Tế – ĐHQG TP HCM, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân… Đó là dấu hiệu đáng mừng và tôi tin trong thời gian tới, với chính sách tự chủ đại học sẽ tạo điều kiện cho nhiều trường đại học uy tín có đủ nguồn lực để đảm bảo tốt cuộc sống cho cán bộ giảng viên và thu hút được nhân tài.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 19.

Có một nghịch lý là xét về số lượng tiến sĩ và những người có học hàm, học vị, Việt Nam nằm top dẫn đầu ASEAN nhưng số lượng bằng sáng chế, phát minh lại vào loại thấp nhất. Theo GS nguyên nhân vì sao?

– Có nhiều nguyên nhân. Những năm 80, thời tôi đi học, những nghiên cứu sinh phải là người giỏi nhất và đi giảng dạy và nghiên cứu thâm niên khoảng 10 năm mới được đăng ký làm nghiên cứu (tôi là khóa đầu của chuyển tiếp nghiên cứu sinh, được làm NCS ngay sau khi tốt nghiệp xuất sắc đại học, nhưng vẫn phải tham gia tuyển chọn chung với tất cả mọi người và lấy từ trên xuống dưới, chỉ những ai đỗ trong số chỉ tiêu được giao mới được tuyển làm NCS). Như tôi được xếp loại xuất sắc. Có thể nói môi trường tuyển chọn để người đó có năng lực nghiên cứu rất chặt chẽ và nghiêm túc.

Nhưng cách đây 5, 6 năm, xã hội đã từng rất bức xúc vì có quá nhiều tiến sĩ giấy. Bên cạnh những cơ sở đào tạo tiến sĩ tốt thì vẫn có những nơi dễ dãi đầu vào và đầu ra, số lượng tiến sĩ nhiều khiến xã hội lên án.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 17.

Do đó, để KHCN phát triển, trước hết chúng ta phải có tiềm lực KHCN tốt, có chất lượng. Vì vậy các tiêu chí đánh giá TS, PGS, GS và các hoạt động KHCN phải đáp ứng được với chuẩn mực của thế giới.

Hai là để có nhiều phát minh sáng chế, phải lấy yêu cầu của các doanh nghiệp và thực tiễn cuộc sống làm đầu bài cho các đề tài KHCN.

Ba là đẩy mạnh triển khai mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp và nhà khoa học. Lấy đổi mới sáng tạo là mục tiêu cho KHCN.

Đồng thời, phải hoàn thiện thể chế, trong đó đặc biệt chú trọng sở hữu trí tuệ. Ở nước ngoài, một nhà khoa học có công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, khi chất xám đi vào cuộc sống có thể sống được cả đời với thành quả trí tuệ của họ.

Ở các nước nghiên cứu khoa học được đặt hàng rất cụ thể từ doanh nghiệp, tổ chức, từ đời sống nên tính hiệu quả, tính ứng dụng của nghiên cứu khoa học rất cao. GS chia sẻ thêm về điều này?

– Đúng vậy, ở nước ngoài, các trường đại học, viện nghiên cứu thường luôn đồng hành cùng doanh nghiệp và được đầu tư rất lớn từ các doanh nghiệp. Những đề tài này giải quyết các yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp nên đương nhiên tính hiệu quả, ứng dụng ngay, nhanh và luôn. Thậm chí nhiều doanh nghiệp lớn ở nước ngoài còn có viện nghiên cứu lớn, phòng thí nghiệm hiện đại.

Đầu tư cho KHCN và nguồn nhân lực chất lượng là xu hướng để phát triển, tồn tại của chính doanh nghiệp đó. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn có chiến lược săn đầu người, tìm người tài về làm việc.

Ở nước ta hiện nay có nhiều tập đoàn lớn như Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, VinGroup, Viettel, Phenikaa và một số doanh nghiệp khác đang rất chú trọng đầu tư cho các trường đại học và học viện nghiên cứu theo chiều hướng như thế. Tôi tin rằng, để vươn lên cạnh tranh thì phải có chất xám, có vai trò của KHCN và đó cũng sẽ là xu thế tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam, cũng không ngoại lệ.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 21.
GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 19.

Người ta thường nghĩ do đặc thù nghề nghiệp nên các nhà khoa học thường khô khan. Có đúng vậy không thưa GS? Một người lãng mạn thì có thích hợp làm khoa học không?

– Tôi nghĩ làm khoa học là hoạt động sáng tạo, vì vậy, lãng mạn là thuộc tính song hành với sáng tạo. Nhiều nhà khoa học tự nhiên, công nghệ tôi thấy không khô khan và thậm chí có thầy về toán mà làm thơ rất hay. Tôi tin là những người có tư duy sáng tạo thì sẽ lãng mạn. Vấn đề là họ thể hiện như thế nào thôi. Cá nhân tôi cũng cho rằng mình là một nhà khoa học có tâm hồn lãng mạn.

Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh giáo dục STEM thì ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho sinh viên rất quan trọng. Với lợi thế đa ngành, đa lĩnh vực, các chương trình đào tạo trong ĐHQGHN cũng đã cho phép sinh viên chương trình này có thể chọn 1-2 môn bất kỳ ở chương trình khác. Ví dụ như 1 em học Công nghệ thông tin có thể chọn học phần Phát triển bền vững, Triết học, Văn hóa học, Tôn giáo học… Cấu trúc chương trình đào tạo như vậy sẽ định hướng phát triển toàn diện, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn lãng mạn, tâm hồn nhân văn trong mỗi nhà khoa học.

GS chia sẻ thêm về công trình nghiên cứu của mình và tính ứng dụng của công trình này hiện nay ra sao?

– Với vật liệu composite, thành tựu đầu tiên của tôi chính là nghiên cứu về vật liệu composite carbon-carbon bền và siêu bền. Vật liệu này thể chịu được vài nghìn độ, rất nhẹ có thể dùng trong tên lửa, an ninh quốc phòng. Những kết quả đó là tiền đề quan trọng cho những nghiên cứu sau này. Thời gian đó tôi cũng đã có bằng phát minh về quy luật ứng xử của vật liệu composite nhiều pha khi có sợi, có hạt, có cấu trúc nano.

Về nước, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của tôi và nhóm nghiên cứu là về các lĩnh vực: composite polyme nhiều pha dùng trong công nghiệp đóng tàu, vật liệu chống thấm, vật liệu chức năng và vật liệu nano,…

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 20.

Bên cạnh nghiên cứu về ổn định tĩnh và động lực học của các kết cấu composite polyme nhiều pha, vật liệu chức năng FGM, vật liệu thông minh, chúng tôi cũng là một trong những nhóm tiên phong nghiên cứu kết cấu tiên tiến chế tạo từ các vật liệu mới khi có vết nứt, vật liệu nano ứng dụng làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời, vật liệu áp điện có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic (có hệ số Poisson âm và có khả năng giảm chấn, hấp thu sóng nổ), cũng như các vật liệu mới composite có tính chất đặc biệt sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt. Từ đó đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở ĐHQGHN.

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 24.

Không chỉ là nhà khoa học giỏi, GS còn được ghi nhận là người thầy tâm huyết với sự nghiệp đào tạo. Thầy đã truyền lửa cho các em thế nào?

– Bên cạnh nghiên cứu khoa học, tôi rất tự hào khi là một giảng viên đại học. Sinh viên các ngành kỹ thuật của tôi thường từ vùng sâu, vùng xa, gia đình nghèo nhưng rất cần cù thông minh và có chí. Ban đầu, nhiều em chỉ có học lực trung bình, khá nhưng đi theo tôi tham gia nghiên cứu được truyền cảm hứng, sự say mê, các em hiểu được mình nghiên cứu như thế nào và để làm gì, được thầy và các anh chị dìu dắt tận tình nên không thấy sợ nghiên cứu mà có niềm đam mê. Từ những kết quả được khích lệ, các em tích lũy mỗi ngày và trở thành những sinh viên giỏi, xuất sắc.

Từ một nhóm nghiên cứu rất sơ khai ban đầu, chỉ trong thời gian từ 2010 đến nay, tôi đã xây dựng nên một nhóm nghiên cứu mạnh và PTN hiện đại theo mô hình mới ở Việt Nam, vừa đào tạo kết hợp với nghiên cứu khoa học, và vừa thành lập nên Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật giao thông – đào tạo kỹ sư xây dựng ở Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN. Bằng sự kiên trì bền bỉ, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự phấn đấu nỗ lực, quên mình, thầy và trò trong PTN và nhóm nghiên cứu đã vững vàng, tự tin vươn lên tầm quốc tế từ nội lực. Tôi và các học trò trong nhóm nghiên cứu đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó gần 200 bài trên trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín. Tôi cũng đã xuất bản những sách chuyên khảo có giá trị bằng tiếng Nga, tiếng Anh, sở hữu 1 bằng phát minh, 1 bằng sáng chế.

Nhóm nghiên cứu của tôi cũng là nơi thắp sáng tài năng, đào tạo ra nhiều tài năng trẻ, những chuyên gia có trình độ cao thuộc lĩnh vực này. 2 học trò của tôi là TS. Trần Quốc Quân và PGS Hoàng Văn Tùng đã vinh dự từng được nhận giải thưởng Nguyên Văn Đạo – giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học. TS Trần Quốc Quân cũng đã được Fobers Việt Nam vinh danh năm 2020. Đến nay, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã được cộng đồng khoa học trong, ngoài nước biết. Tôi cũng đã được mời tham gia vào hội đồng biên tập 10 tạp chí khoa học có uy, làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho hơn 70 tạp chí ISI có uy tín của quốc tế và báo cáo ở nhiều hội nghị quốc tế có uy tín.

Những trí thức trẻ được đào tạo và trưởng thành trong các nhóm nghiên cứu mạnh như các học trò của tôi sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao, và tôi tin chính thế hệ trẻ ưu tú ấy sẽ là những nhân tố mới đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời gian tới.

Có người cho rằng một người làm nghề giỏi chưa hẳn là một nhà quản lý giỏi vì không phải ai cũng có năng lực quản lý. GS nghĩ sao về điều này?

– Tôi cho rằng điều đó có phần đúng nhưng còn tùy vào những trường hợp cụ thể. Đã có rất nhiều trường hợp nhà khoa học giỏi nhưng cũng có khả năng tổ chức, quản lý giỏi như GS Tạ Quang Bửu, GS Nguyễn Đình Tứ….

GS có thể tiết lộ về cuộc sống riêng của mình và ngoài công việc ra, lúc có thời gian rảnh rỗi, GS giải trí như thế nào?

– Thời gian rảnh rỗi tôi thường tập thể thao, đi bộ, tập gym, nghe nhạc và gặp gỡ bạn bè. Bà xã tôi cũng là cán bộ khoa học và công tác tại Viện hàn lâm Khoa học Xã hội. Tôi có 2 con, một gái, một trai, cả 2 cháu hiện cũng đang làm giảng viên tại ĐHQGHN.

Xin cảm ơn Giáo sư!

GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 25.
GS Nguyễn Đình Đức: Để học thật, thi thật, nhân tài thật  - Ảnh 22.

“Tôi cảm thấy tự hào khi được làm nghề giáo”

GDVN- “Càng có ý nghĩa hơn khi danh hiệu Nhà giáo nhân dân đến với tôi vào đúng dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11″, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Thị Cành chia sẻ.

Có thể nói, danh hiệu Nhà giáo nhân dân là danh hiệu cao quý của cả quá trình phấn đấu cho sự nghiệp “trồng người” của các thầy, cô giáo. Qua đó cho thấy những nỗ lực trong công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy của cá nhân liên tục cho cả quá trình được ghi nhận.

Danh hiệu Nhà giáo nhân dân không đơn thuần ghi nhận kết quả hoạt động, làm việc của cá nhân mà còn ghi nhận sự đóng góp đó được lan tỏa đến các thế hệ học trò, những thành công của các thế hệ học trò nối tiếp nhau.

Vừa được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân năm 2021, chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Thị Cành – nguyên Giảng viên cao cấp, Khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; cảm thấy tự hào được làm nghề giáo, được sống và cống hiến, được truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho các thế hệ kế tiếp và đã được ghi nhận.

“Càng có ý nghĩa hơn khi danh hiệu Nhà giáo nhân dân đến với tôi vào đúng dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Những ngày này lại được các thế hệ học trò nhớ đến chúc mừng ngày 20/11, chúc mừng cô nhận danh hiệu cao quý.

Năm nay do dịch Covid-19, hạn chế gặp gỡ nên những lời chúc mừng của các thế hệ học trò đến với tôi chủ yếu được chuyển qua facebook, qua email, nhưng tôi vẫn thấy vui, thấy tự hào mình là nhà giáo!”, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Thị Cành chia sẻ.

Giáo sư Nguyễn Thị Cành (ảnh: NVCC)

Nói về quá trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Thị Cành cho rằng, Đại hội XIII của Đảng xác định tiếp tục: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”.

Có thể nói, giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho vốn con người, vì vậy tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của đất nước, và cũng là nhiệm vụ của mỗi thầy cô giáo trên giác độ phát huy vai trò, vị trí của chính mình.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo đã và đang chuyển qua tự chủ (tự chủ về học thuật, tự chủ về tài chính, tự chủ về tổ chức và tự chịu trách nhiệm giải trình trước cộng đồng, người học).

Trong bối cảnh đó, tự chủ sẽ có nhiều cơ hội cho các thầy cô giáo, đặc biệt là các đồng nghiệp trẻ có cơ hội phấn đấu nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp để có vị trí và thu nhập cao hơn.

“Tôi tin rằng, các đồng nghiệp trẻ, những người đi sau dễ dàng hội nhập với các nền giáo dục tiên tiến để được trang bị các kiến thức và kỹ năng tốt hơn.

Đồng thời họ cũng sẽ nối tiếp các thế hệ đi trước tiếp tục thắp lên ngọn lửa đam mê yêu ngành, yêu nghề, sống trung thực có đạo đức nghề nghiệp, luôn phấn đấu tốt nhất để có kiến thức, có kỹ năng góp phần đổi mới sự nghiệp giáo dục của nước nhà.

Khi nền giáo dục được đổi mới toàn diện, cùng với chính sách đổi mới của nhà nước, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục, đào tạo, các thầy cô giáo phát huy được năng lực của tổ chức và cá nhân, tạo điều kiện cho đội ngũ thầy cô sống được bằng nghề, đồng thời cùng phấn đấu cho sự nghiệp chung vì sự phát triển của đơn vị nơi làm việc nói riêng và vì sự phát triển của ngành giáo dục nước nhà nói chung”, giáo sư Nguyễn Thị Cành gửi gắm.

Thành công của giáo dục đại học đến từ tâm- tầm và nhiệt huyết của người thầy

Là người thầy đã gần 40 năm gắn bó với giáo dục đại học, Giáo sư Nguyễn Đình Đức – Trưởng ban đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đào tạo nên nhiều học trò giỏi giang và thành tài. Quan trọng nhất là từ nhóm nghiên cứu, Giáo sư Đức đã kiên trì, bền bỉ và thành lập nên nhiều ngành mới với các hướng nghiên cứu tiên tiến, hiện đại.

Nhân dịp Ngày nhà giáo Việt Nam, chia sẻ về những thành công của người thầy trên giảng đường đại học, Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết, với ông, không có trò nào kém. Học trò nào cũng ẩn chứa những tiềm năng và chính niềm tin yêu, sự tận tâm và động viên khích lệ của người thầy là động lực khơi dậy và đánh thức tiềm năng sáng tạo của các học trò.

Để trở thành nhà giáo, nhà khoa học giỏi, người thầy còn phải có lý tưởng và có tầm nhìn. Giáo sư Đức luôn tâm niệm các nhà khoa học Việt Nam phải vươn lên, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế. Vì vậy, cũng theo triết lý của thầy Đức, giáo dục đại học muốn thành công, phải luôn bắt nhịp với những hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới. Hoạt động đào tạo và nghiên cứu trong các trường đại học phải hội nhập theo các chuẩn mực và trình độ của quốc tế.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cho rằng, các nghiên cứu khoa học cũng không nên chỉ dừng lại ở các công bố quốc tế, mà quan trọng nhất là phải đặc biệt chú trọng gắn đào tạo và nghiên cứu với thực tiễn, phục vụ thiết thực sự phát triển kinh tế – xã hội của nước nhà.

Và theo Trưởng ban Đào tạo – Đại học Quốc gia Hà Nội, yếu tố rất quan trọng làm nên thành công của sự nghiệp giáo dục là người thầy chân chính thì không màng danh lợi. Và người thầy còn có vai trò rất lớn ở chỗ chính là tấm gương cho các thế hệ học trò noi theo.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức – Trưởng Ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội (ảnh: NVCC)

Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu Tiên tiến và Composite. Giáo sư Đức đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín, tác giả của 2 bằng phát minh sáng chế. Ông cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã từng là giáo sư nghiên cứu và thỉnh giảng của các trường đại học danh tiếng của thế giới như: Moscow State University; Mechanical Engineering Research Institute of Russian Academy of sciences (LB Nga); Japan Advanced Institute of Sciences and Technology (JAIST – Nhật Bản); University of Birmingham (Vương quốc Anh), Sejong University (Hàn Quốc).

Liên tục 3 năm liền, năm 2019, 2020, 2021 GS Nguyễn Đình Đức được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong top 100.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng (impact) thế giới và đứng đầu trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam trong danh sách này năm 2020, 2021; đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering. Ông cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.

Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, xin gửi đến Nhà giáo nhân dân Võ Thanh Thu, Giáo sư Nguyễn Đình Đức và các thầy cô giáo – những người thầy đã và đang làm việc, cống hiến quên mình vì tương lai đất nước sự tri ân, lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất.

Kính chúc các thầy cô giáo luôn mạnh khỏe, tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, luôn đong đầy nhiệt huyết để truyền lửa cho thế hệ trẻ tiếp bước, và tiếp tục đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp trồng người.

Thùy Linh

5 scientists from Vietnamese universities entered the Ranking of 10,000 most influential scientists in the world in 2021

Again, the author of this research is the Metrics group of professor Jeroen Baas, professor Kevin Boyack and professors John P.A. Ioannidis who come from Stanford University in the US. They did conduct the research and published the result in the PLoS Biology Journal of the US. The authors used Scopus’s database from 1960 to August 2021 of more than 7 million scientists and filtered out the top 100,000 most influential people.

Following the method of the previous years, this research doesn’t have any changes in measurement and evaluation tools, by updating the database of more than 100,000 most-cited scientists (from Scopus data sources) and rating the scientists based on some important criteria such as: composite score, the number of citations (excluding self-citation), H-index, Schreiber hm-index, the number of citations for 1st author articles, corresponding author articles and last author articles.

The scientists are divided into 22 scientific fields and 176 sub-fields (disciplines/specialities).

According to the rankings just announced on October 20th, 2021, there are 28 Vietnamese scientists who are working in Vietnam entered the ranking of the top 100,000 most influential scientists in the world in 2021.

In the order of this ranking, Prof. Dr. Nguyen Dinh Duc – Vietnam National University, Hanoi (VNU) continues to be at the top among Vietnamese scientists, ranked at the 5949th in the world (and 96th in the field of engineering over the world). Follow are Assoc. Prof. Dr. Le Hoang Son (VNU) – ranked 6766th, Prof. Dr. Nguyen Xuan Hung (HCMC University of Technology) – ranked at 6818th, Prof. Dr. Bui Tien Dieu (Duy Tan University) Tan) ranked at 9488th, and Prof. Dr. Vo Xuan Vinh (Ho Chi Minh City University of Economics) ranked at 9528th.

Prof. Dr. Nguyen Dinh Duc, Prof. Dr. Nguyen Xuan Hung and Assoc. Prof. Dr. Le Hoang Son are 3 scientists belonging to the top 10,000 best scientists in the world for 3 consecutive years 2019, 2020, 2021.

Prof. Dr. Nguyen Dinh Duc, Vietnam National University, Hanoi (VNU) continues to take the lead among Vietnamese scientists.

Prof. Dr. Nguyen Dinh Duc, Vietnam National University, Hanoi (VNU) continues to take the lead among Vietnamese scientists.

Next on this list are Tran Hai Nguyen (Duy Tan University) ranked at 14704th, Tran Xuan Bach (Hanoi Medical University) ranked at 19881st, Pham Thai Binh (Transportation Technology University) ranked at 21588th, Hoang Duc Nhat (Duy Tan University) ranked at 23301st; Dang Van Hieu (Thang Long University) ranked at 31139th and Hoang Anh Tuan (University of Technology – Ho Chi Minh) ranked at 32938th.

Pham Van Hung (International School – Vietnam National University Ho Chi Minh) ranked at 37520th; Nguyen Thoi Trung (Ton Duc Thang University) ranked at 46053rd; Tran Trung (Hoa Binh University) ranked at 48769th; Thai Hoang Chien (Ton Duc Thang University) ranked at 50676th; Vu Quang Bach (Ton Duc Thang University) ranked at 54001st; Nguyen Trung Kien (Ho Chi Minh – University of Technology and Education) ranked at 53486th; Nguyen Minh Tho (Ton Duc Thang University) ranked at 56922nd, Pham Viet Thanh (Ton Duc Thang University) ranked at 57491st; and Nguyen Truong Khang (Ton Duc Thang University) ranked at 62835th.

Nguyen Trung Thang (Ton Duc Thang University) ranked at 66150th, Le Thai Ha (Fulbright University Vietnam) ranked at 74063rd, Nguyen Dang Nam (Duy Tan University) ranked at 81653rd, Van Hieu (Phenikaa University) ranked at 82171st, Phung Van Phuc (Ho Chi Minh City University of Technology) ranked at 83196th; Pham Thai Binh (HCMC University of Transport) ranked at 84698th; Duong Viet Thong (Ton Duc Thang University) ranked at 88842nd; and Nguyen Hoang Long (Hanoi University of Mining and Geology) – ranked at 94128th.

Among the Vietnamese scientists working abroad included in this year’s ranking, we have Prof. Dam Thanh Son (USA) ranked at 7302nd, Assoc. Prof Bui Quoc Tinh (Tokyo Institute of Technology, Japan) ranked at 9640th, Prof. Ngo Duc Tuan (University of Melbourne, Australia) ranked at 10652nd, Prof. Nguyen Van Tuan (Australia) ranked at 21835th, and Prof. Duc Truong Pham (University of Birmingham, UK) ranked at 39062nd over the world.

Especially, this year, more Vietnamese scientists who working in Vietnam or abroad entered the most prestigious rankings – 100.000 most influential scientists in the world (by lifetime achievement). In which, 5 Vietnamese scientists in the top list is Prof. Nguyen Minh Tho (Ton Duc Thang University), Prof. Tran Hien Trinh (Oxford University), Prof. Nguyen Xuan Hung (Ho Chi Minh City University of Technology), Prof. Nguyen Dinh Duc (VNU) and Prof. Hoang Tuy (Institute of Mathematics).

These proud results once again affirm the position and development of Vietnamese scientists recognized in the international scientific community. And it is also the result of the fundamental and comprehensive reform of Vietnam’s higher education.

Hồng Hạnh

Source: “Updated science-wide author databases of standardized citation indicators”, Jeroen Baas et.al. https://elsevier.digitalcommonsdata.com/datasets/btchxktzyw/3

https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/5-nha-khoa-hoc-viet-nam-vao-top-10000-nha-khoa-hoc-hang-dau-the-gioi-20211025064656827.htm

5 nhà khoa học Việt Nam vào top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới

Theo bảng xếp hạng vừa được công bố ngày 20/10/2021, có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2021.

Được biết, tác giả của công bố này vẫn là nhóm Metrics của các giáo sư Jeroen Baas, Kevin Boyack và John P.A. Ioannidis của  Đại học Stanford của Hoa Kỳ nghiên cứu và công bố trên tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ.

Theo đó, nhóm tác giả đã dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ 1960 đến tháng 8.2021 trong hơn 7 triệu nhà khoa học và lọc ra top 100.000 người có ảnh hưởng nhất.

Tiếp theo những năm trước, nghiên cứu không có sự thay đổi trong công cụ đo lường và đánh giá khi nhóm nghiên cứu cập nhật cơ sở dữ liệu của hơn 100.000 nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất (từ nguồn dữ liệu của Scopus) và xếp hạng của họ dựa vào các tiêu chí quan trọng như: chỉ số ảnh hưởng trong giới khoa học (composite score); tổng số trích dẫn (không bao gồm các tự trích dẫn); chỉ số Hirsch h-index; chỉ số Schreiber hm-index; số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất (single author); số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính (tên đầu tiên – first author và tác giả liên hệ – corresponding author), và tác giả cuối cùng – last author, …

Các nhà khoa học được phân chia vào 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, Việt Nam có 5 nhà khoa học vào top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới gồm:  GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5949 thế giới (và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering), tiếp đến là PGS.TS Lê Hoàng Sơn (ĐHQGHN) – xếp hạng 6766, GS.TS Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM) – xếp hạng 6818, GS.TS Bùi Tiến Diệu (ĐH Duy Tân) -9488, GS.TS Võ Xuân Vinh (ĐH Kinh tế TP HCM)- xếp thứ 9528.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam.

GS Nguyễn Đình Đức, GS Nguyễn Xuân Hùng và PGS Lê Hoàng Sơn là 3 người lọt vào top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất của thế giới trong 3 năm liên tiếp 2019, 2020,2021.

Tiếp đến trong danh sách này là các nhà khoa học Việt Nam là: Trần Hải Nguyên (ĐH Duy Tân) xếp thứ 14704, Trần Xuân Bách (ĐH Y Hà Nội) -19881, Phạm Thái Bình (ĐH Công nghệ Giao thông vận tải) – 21588, Hoàng Đức Nhật (ĐH Duy Tân-23301;  Đặng Văn Hiếu (ĐH Thăng Long) – 31139;  Hoàng Anh Tuấn (ĐH Công nghệ -TP Hồ Chí Minh) – 32938;

Phạm Văn Hùng (ĐH Quốc tế, ĐHQG Hồ Chí Minh) – 37520; Nguyễn Thời Trung (ĐH Tôn Đức Thắng) -46053; Trần Trung (ĐH Hòa Bình) – 48769; Thái Hoàng Chiến (ĐH Tôn Đức Thắng) -50676; Vũ Quang Bách (ĐH Tôn Đức Thắng) – 54001; Nguyễn Trung Kiên (ĐH Sư phạm Kỹ thuật HCM)- 53486; Nguyễn Minh Thọ (ĐH Tôn Đức Thắng) – 56922, Phạm Việt Thành (ĐH Tôn Đức Thắng) – 57491; Nguyễn Trường Khang (ĐH Tôn Đức Thắng) – 62835;

Nguyễn Trung Thắng (ĐH Tôn Đức Thắng) – 66150, Lê Thái Hà (ĐH Fulbrigh Việt Nam)- 74063, Nguyễn Đăng Nam (ĐH Duy Tân) – 81653,Văn Hiếu (ĐH Phenikaa) -82171, Phùng Văn Phúc (ĐH Công nghệ TP HCM) – 83196; Phạm Thái Bình (ĐH Giao thông vận tải HCM) -84698; Dương Viết Thông (ĐH Tôn Đức Thắng) – 88842; Nguyễn Hoàng Long (ĐH Mỏ Địa chất Hà Nội) – xếp hạng 94128.

Trong số các nhà khoa học Việt Nam có tên tuổi đang làm việc ở nước ngoài có trong bảng xếp hạng năm nay, có thể kể đến như GS Đàm Thanh Sơn (Hoa Kỳ) – xếp hạng 7302, PGS Bùi Quốc Tính (Tokyo Institute of Technology, Nhật Bản) – 9640, GS Ngô Đức Tuấn (University of Melbourne, Úc) -xếp hạng 10652, GS  Nguyễn Văn Tuấn (Úc) – 21.835, và GS Duc Truong  Pham (University of Birmingham, UK) -39062 thế giới.

Đặc biệt, năm nay có thêm nhiều nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngoài nước lọt vào bảng xếp hạng danh giá nhất – 100.000 nhà khoa học được xếp hạng ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời, 05 nhà khoa học Việt Nam đứng đầu trong danh sách là GS Nguyen Minh Tho (ĐH Tôn Đức Thắng), GS. Tran Hien Trinh (Oxford University), GS Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM), GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN) và cố GS Hoàng Tụy (Viện Toán học).

Những kết quả đáng tự hào này một lần nữa tiếp tục khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế. Và cũng là thành quả của sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học của Việt Nam.

                                                                                                                     Nhật  Hồng