GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đại học Quốc gia Hà Nội – 1/4 thế kỷ bền bỉ với sứ mệnh tiên phong, đổi mới, thắp sáng và đào tạo, bồi dưỡng nhân tài

Năm 1993, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ với sứ mạng là đại học trọng điểm quốc gia – một trung tâm đào tạo chất lượng cao, trình độ cao gắn với nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế làm nòng cột và đầu tàu đổi mới cho hệ thống giáo dục nước nhà.

Mô hình Đại học quốc gia cũng là một đại học tự chủ. Thời điểm đó, đất nước vừa mới bước vào thời kỳ đổi mới. Những khái niệm về tự chủ đại học, chuẩn mực quốc tế còn chưa phổ biến với nền giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, với tầm nhìn xa trông rộng, Đảng và Nhà nước đã nhận ra những hạn chế của các đại học chuyên ngành đang hiện có vốn được xây dựng để phục vụ nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa để thành lập ĐHQGHN với mục đích trở thành đại học hàng đầu của Việt Nam, hội nhập với nền giáo dục đại học hiện đại của thế giới.

Năm 2012, các ĐHQG đã được đưa vào Luật giáo dục đại học. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hai Đại học Quốc gia phát triển.

Từ đó đến nay đã 25 năm trôi qua ( 1/4 thế kỷ) kể từ ngày thành lập, ĐHQGHN đã phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu lớn, luôn khẳng định là đại học hàng đầu của Việt Nam. Những thành công của ĐHQGHN trong lĩnh vực đào tạo cụ thể như sau:

Thứ nhất, trở thành mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, phát huy thế mạnh liên thông, liên kết giữa các đơn vị:

Khi mới thành lập, ĐHQGHN chỉ có 3 trường đại học thành viên là ĐH Tổng hợp, ĐH Sư phạm Hà Nội và ĐH Sư phạm ngoại ngữ. Đến nay ĐHQGHN đã cơ bản hoàn chỉnh cơ cấu đa ngành đa lĩnh vực với 7 trường đại học thành viên, 5 viện nghiên cứu và 5 khoa trực thuộc. Các trường đại học gồm: Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Công nghệ, Trường ĐH Ngoại ngữ, Trường ĐH Kinh tế, Trường ĐH Giáo dục và Trường ĐH Việt Nhật (được thành lập gần đây). Các viện nghiên cứu gồm có: Viện Công nghệ Thông tin, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Viện Tài nguyên và Môi trường, Viện Trần Nhân Tông, Viện Đảm bảo Chất lượng giáo dục. Khoa đào tạo trực thuộc ĐHQGHN gồm: Khoa Luật, Khoa Quốc tế, Khoa Quản trị và Kinh doanh, Khoa các khoa học liên ngành, Khoa Y dược. Với cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực như trên, ĐHQGHN có thế mạnh lớn để tham gia giải quyết những vấn đề khoa học công nghệ trọng điểm, của đất nước trong tất cả các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực khó và quan trọng như: hàng không vũ trụ, xây dựng – giao thông, công nghệ nano, chương trình KHCN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, xây dựng bộ Quốc chí của Việt Nam,…

Thứ hai, ĐHQG đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nhân tài, đào tạo chất lượng, trình độ cao:

ĐHQGHN là cơ sở giáo dục đào tạo từ bậc trung học phổ thông đến tiến sĩ. Ngoài các trường chuyên được thành lập lâu đời với bề dày thành tích được cả nước biết đến như: Trường THPT chuyên KHTN (thuộc trường Đại học KHTN) và Trường THPT chuyên ngoại ngữ (thuộc trường ĐH Ngoại ngữ), mới đâyTrường THPT Khoa học Giáo dục (thuộc Trường ĐH Giáo dục) đã được thành lập. Đặc biệt, Trường THPT chuyên KHTN đã đạt được nhiều thành tích trên đấu trường quốc tế và châu lục, đứng đầu khối các trường chuyên ở Việt Nam với thành tích: đoạt 54 huy chương vàng, 71 huy chương bạc và 65 huy chương đồng trong các kỳ thi Olympic quốc tế; 7 huy chương vàng,14 huy chương bạc và 14 huy chương đồng trong các kỳ thi Olympic châu Á.

Bên các chương trình đào tạo hệ chuẩn, ĐHQGHN đã xây dựng các chương trình đặc biệt để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Lần đầu tiên ở Việt Nam, năm 1997, ĐHQGHN đã xây dựng và triển khai dự án “Đào tạo cử nhân khoa học tài năng” và từ năm 2001, là Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực tài năng”. Bên cạnh truyền thống đào tạo nhân tài ở bậc trung học phổ thông chuyên (với 2 trường chuyên ĐHKHTN và ĐHNN), ĐHQGHN là trường đại học đầu tiên của Việt Nam thực hiện một cách chính quy công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài ở bậc đại học. Mục tiêu của Dự án năm 2001 là khai thác tiềm lực và thế mạnh của ĐHQGHN về cơ sở vật chất và đội ngũ khoa học đầu ngành để tham gia đào tạo các nhà khoa học giỏi thuộc các ngành khoa học cơ bản cốt lõi, các ngành công nghệ cao và kinh tế xã hội mũi nhọn, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là đội ngũ giảng viên các khoa học cơ bản tại các trường đại học, cao đẳng cũng như các nghiên cứu viên, nhà quản lý, chuyển giao công nghệ tài năng tại các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị trong toàn quốc, với đầu vào hệ cử nhân khoa học tài năng là các em đoạt các giải olympic quốc tế, quốc gia và có điểm thi đại học đầu vào xuất sắc.

Năm 2005, ĐHQGHN đã tiến hành tổng kết Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực tài năng”. Từ 1997-2005, đã có 1940 sinh viên, 387 học viên và 156 NCS đã tham gia Với những thành công và bài học kinh nghiệm sau gần 10 năm thí điểm, Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá cao sự mô hình đào tạo tài năng bậc đại học của ĐHQGHN, đồng thời chỉ đạo các bộ ngành liên quan nghiên cứu xây dựng chế độ chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng mô hình bồi dưỡng và đào tạo tài năng, chất lượng cao của ĐHQGHN cho toàn ngành. Đào tạo cử nhân khoa học tài năng tiếp tục được ĐHQGHN duy trì đào tạo đến ngày nay.

Từ năm 2006 trở đi, để tăng cường hội nhập các chuẩn mực quốc tế, trong khi quy mô đào tạo cử nhân tài năng, chất lượng cao còn nhỏ, mức độ “quốc tế hoá” về chương trình, phương pháp đào tạo, ngoại ngữ sử dụng chưa đủ cao, ĐHQGHN bắt đầu triển khai đào tạo các chương trình tiên tiến. Chương trình đào tạo tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, sử dụng toàn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và cấp kinh phí triển khai thực hiện. Đội ngũ giảng viên của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài. Chương trình này chỉ đảm nhận việc phát triển quốc tế hóa một chương trình đào tạo, chưa nhằm mục tiêu phát triển được cả ngành, đơn vị cấp Khoa đạt chuẩn quốc tế.

Chính vì vậy, tiếp sau chương trình tiên tiến, năm 2007, ĐHQGHN bắt đầu triển khai các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế, còn gọi là chương trình nhiệm vụ chiến lược (ban đầu được gọi là chương trình 16-23, vì tập trung lựa chọn được 16 ngành đại học và 23 chuyên ngành sau đại học tham gia Đề án). Mục tiêu của chương trình này là xây dựng và phát triển cả ngành, chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế, từ chương trình đào tạo đến đội ngũ, cơ sở vật chất, học liệu, nguồn nhân lực theo các tiêu chí đánh giá xếp hạng nhằm tạo tiền đề và điều kiện để phát triển từng bước từ bộ môn, khoa đến trường đại học thành viên đạt chuẩn quốc tế và được đầu tư, phê duyệt theo từng đề án cho từng ngành/chuyên ngành. Đây là mục tiêu và sách lược quan trọng của ĐHQGHN trong quá trình phát triển, nhằm chọn lọc vun cao, từng bước khả thi nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và sức cạnh tranh, thương hiệu của ĐHQGHN, góp phần đổi mới cơ bản giáo dục đại học Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực và chất lượng quốc tế.

Các chương trình đào tạo của ĐHQGHN hiện nay gồm: Chương trình đào tạo tài năng, Chương trình tiên tiến (tức chương trình đào tạo theo dự án của Bộ Giáo dục nhằm xây dựng các ngành đào tạo chất lượng cao, theo nội dung, chương trình của các đại học danh tiếng trên thế giới), Chương trình chuẩn quốc tế (còn gọi là các chương trình thuộc nhiệm vụ chiến lược, cũng tương tự như chương trình tiên tiến của Bộ nhưng được ĐHQGHN đầu tư); Chương trình chất lượng cao của ĐHQGHN, chất lượng cao theo Thông tư 23 của Bộ giáo dục Đào tạo và các chương trình chuẩn. Các chương trình đặc biệt đều có chuẩn đầu ra cao hơn hệ chuẩn về chuyên môn và ngoại ngữ. Ví dụ với chương trình chuẩn ngoại ngữ tiếng Anh đầu ra B1, các chương trình chất lượng cao – B2, chương trình tài năng, tiên tiến – chuẩn C1.

Bên cạnh đó, ĐHQGHN còn có cơ chế liên thông và sử dụng chung cán bộ cơ hữu trong toàn đại học. Do đó, các chương trình đạo tạo cũng rất phong phú và đa dạng. Năm 1993, ĐHQGHN chỉ có vài chục chương trình đào tạo, đến nay đã có 136 chương trình đào tạo đại học, 144 chương trình đào tạo thạc sĩ và 112 chương trình đào tạo tiến sĩ.

Trong vòng 25 năm xây dựng và phát triển, ĐHQGHN đã cấp 195.000 bằng đại học, 32.227 bằng thạc sĩ và 1632 bằng tiến sĩ. Quy mô đào tạo hiện nay của ĐHQGHN là 25.524 sinh viên, 6.279 học viên cao học và 1442 nghiên cứu sinh. Trong vòng 25 năm qua, số sinh viên đã tốt nghiệp các chương trình đặc biệt (tài năng, tiên tiến, chuẩn quốc tế, chất lượng cao) là 5002 (chiếm 2,5% tổng số bằng đại học đã cấp), và hiện đang đào tạo 4277 em các chương trình đặc biệt (chiếm tỷ lệ 16,73% tổng quy mô đào tạo đại học hiện nay ở ĐHQGHN).

Đứng trước những yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. ĐHQGHN đã triển khai Đề án đổi mới đào tạo trình độ tiến sĩ tại ĐHQGHN và đã ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới (2017). Đây là bước đột phá mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo. Quy chế mới yêu cầu nâng cao chuẩn đầu ra về chuyên môn và ngoại ngữ của NCS, nâng cao chuẩn về công bố quốc tế và chất lượng của đội ngũ giảng viên hướng dẫn NCS cũng như đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo, giảng dạy bậc tiến sĩ; yêu cầu gắn hoạt động làm luận án của NCS với hoạt động của bộ môn/PTN; với việc tham gia các đề tài nghiên cứu; hướng dẫn thực hành, thực tập; hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp và các seminar khoa học của đơn vị chuyên môn; trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao nhất cho cán bộ hướng dẫn và bộ môn trong quá trình đào tạo NCS. Đồng thời, Quy chế cũng đặc cách bỏ quy quy trình phản biện kín với các NCS có thành tích nghiên cứu xuất sắc, công bố được nhiều bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Với Quy chế này, ĐHQGHN thực hiện đào tạo tiến sĩ với yêu cầu về chuẩn đầu ra, cũng như theo quy trình và chuẩn mực tổ chức và quản lý đào tạo như của các trường đại học tiên tiến trên thế giới.

Thứ ba, ĐHQGHN luôn đi tiên phong đổi mới nhiều lĩnh vực trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam:

Không chỉ tiên phong trong việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài thông qua các chương trình đào tạo đặc biệt như đã nói tới ở trên, ĐHQGHN cũng tiên phong trong cả nước xác định phát triển theo mô hình đại học định hướng nghiên cứu, gắn đào tạo với nghiên cứu, với việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh.

Với triết lý đào tạo thông qua nghiên cứu để đảm bảo chất lượng và nghiên cứu để tiếp cận trình độ của thế giới, đào tạo trình độ cao, năm 2004, tại phiên họp lần thứ X Hội đồng Khoa học và Đào tạo của ĐHQGHN đã xác định các tiêu chí cơ bản của đại học nghiên cứu, như chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu; tỷ lệ sinh viên/giảng viên; tỷ lệ đào tạo sau đại học/đại học; số lượng, chất lượng và lượt trích dẫn của các công bố quốc tế; các phát minh, sang chế; giải thưởng KHCN,….và từ đó định hướng cho các hoạt động của nhà trường. Việc tiên phong mở rộng quy mô đào tạo, theo hướng nâng cao tỷ lệ đào tạo sau đại học/đại học cũng như đầu tư xây dựng các nhóm nghiên cứu chính là hai trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược này.

ĐHQGHN cũng tiên phong mở các ngành mới, ngành/chuyên ngành thí điểm chưa có trong danh mục mã ngành đào tạo của Nhà nước, như công nghệ nano, công nghệ hàng không vũ trụ, an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu,…Đến nay một số chương trình thí điểm của ĐHQGHN đã được đưa vào danh mục đào tạo của Nhà nước như các chương trình đào tạo ngành Hóa dược, Kinh tế phát triển, Luật kinh doanh (bậc đại học), Ngôn ngữ Nhật (bậc thạc sĩ), Đo lường Đánh giá trong giáo dục (bậc thạc sĩ và tiến sĩ). Hiện nay ĐHQGHN đang đào tạo 27 chương trình mới thí điểm (gồm 8 ngành cử nhân, 16 chuyên ngành thạc sĩ, 3 chuyên ngành tiến sĩ). Đây là những đặc sản trong đào tạo của ĐHQGHN.

Với tầm nhìn xa, tổng hợp, bao quát, , ngay từ năm 1995, lãnh đạo ĐHQGHN đã thành lập Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển giáo dục (tiền thân của Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục, Trung tâm khảo thí và Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục của ĐHQGHN ngày nay). Những đóng góp của Trung tâm này về các tiêu chí đảm bảo chất lượng giáo dục, về xếp hạng đại học, các năng lực phẩm chất cần có để dự tuyển vào đại học để xây dựng bài thi chuẩn hóa đánh giá năng lực, cũng như mở ngành và đào tạo đầu tiên trong cả nước thạc sĩ và tiến sĩ về đo lường đánh giá trong giáo dục, cũng như những thành tựu khác đã đạt được trong 25 năm qua trong lĩnh vực khảo thí, kiểm định và đảm bảo chất lượng giáo dục của Trung tâm/Viện một lần nữa chứng minh quyết định hết sức đúng đắn của lãnh đạo ĐHQGHN và khẳng định vị trí, vai trò tiên phong của ĐHQGHN trong đo lường đánh giá, đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục ở Việt Nam, tiến dần ra khu vực và thế giới.

Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã đi đầu trong đổi mới tuyển sinh đại học theo đánh giá năng lực ; tiên phong trong việc xây dựng bài thi chuẩn hóa đánh giá năng lực và cũng tiên phong áp dụng thành công việc triển khai đổi mới tuyển sinh theo hình thức sử dụng bài thi đánh giá năng lực ở ĐHQGHN. Với phổ kiến thức vừa rộng lại vừa sâu, phong phú, kết quả thi nhanh, việc chấm thi tự động bằng máy khách quan, trung thực, và có thể tổ chức cho thí sinh chủ động đăng ký thi nhiều lần trong năm, đã được dự luận xã hội đồng tình ủng hộ và đánh giá rất cao. Tuyển sinh theo Đánh giá năng lực của ĐHQGHN như luồng gió mới làm mát dịu những căng thẳng của các kỳ thi đại học theo 3 chung cứ mỗi năm vào hè tháng 6. Nhiều trường đại học khác đã sử dụng kết quả thi đánh giá năng lực của ĐHQGHN để tuyển sinh. Đây cũng là những tiền đề, kinh nghiệm và bài học quan trọng để triển khai các bài thi trắc nghiệm tốt nghiệp THPT, để tuyển sinh đại học sau này.

ĐHQGHN cũng là một trong những đơn vị tiên phong triển khai đào tạo theo tín chỉ thành công ở Việt nam. Sau một số năm nghiên cứu, tìm hiểu phương thức tổ chức và quản lý đào tạo theo mô hình tín chỉ của nước ngoài, từ năm 2006, ĐHQGHN bắt đầu triển khai áp dụng các yếu tố tích cực của phương thức đào tạo theo tín chỉ, đó là: chuyển đổi chương trình; xây dựng đề cương môn học; áp dụng phương pháp dạy – học và kiểm tra đánh giá theo tín chỉ và từ 2010; đến nay đã áp dụng hoàn toàn và triệt để phương thức đào tạo theo tín chỉ. Các chương trình đào tạo được thiết kế theo chuẩn đầu ra, với các khối kiến thức chung được giảng dạy thống nhất trong toàn ĐHQGHN. Thành công này đã tạo điều kiện cho việc phát huy thế mạnh liên thông, liên kết trong ĐHQGHN, mô hình a+b (như mô hình đào tạo cử nhân sư phạm, bác sỹ đa khoa,…), đặc biệt là trong việc xây dựng các chương trình đào tạo mới liên ngành, liên đơn vị; trong việc triển khai tổ chức giảng dạy bằng kép (song bằng) thành công. Bên cạnh đó, cũng nhờ tích lũy tín chỉ, sinh viên có thể chủ động lựa chọn tích lũy các học phần theo kế hoạch và thời gian của cá nhân, nhờ vậy đến nay đã có gần 3000 sinh viên được cấp bằng kép (bằng chính quy thứ 2 trong thời gian học tập tại ĐHQGHN) và 421 em tốt nghiệp đại học sớm so với quy định từ 1 đến 2 học kỳ.

Một sự đổi mới khác đối với 2 trường chuyên (Trường THPT chuyên KHTN và Trường THPT chuyên ngoại ngữ), để lựa chọn được nhiều học sinh ưu tú vào học theo chương trình đại học, năm 2014, ĐHQGHN đã tiên phong nghiên cứu và ban hành quy chế đặc thù cho học sinh chuyên, ban hành các tiêu chí và quy định xét tuyển thẳng vào các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc của ĐHQGHN những học sinh xuất sắc. Dó đó, đã thu hút được nguồn học sinh giỏi vào học các ngành khoa học cơ bản để nối tiếp truyền thống và phát huy thế mạnh của ĐHQGHN.

ĐHQGHN cũng là đơn vị tiên phong trong các cơ sở giáo dục đào tạo của cả nước rà soát và nghiên cứu, xây dựng bản quy hoạch các ngành nghề đào tạo (2014) và phân tầng các chương trình đào tạo (2015). Đây là kim chỉ nam, là kế hoạch và chiến lược hết sức quan trọng định hướng cho hoạt động đào tạo của ĐHQGHN và các đơn vị đào tạo của ĐHQGHN trong giai đoạn mới.

Thứ tư, ĐHQG kiên trì và giữ vững chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, hội nhập với quốc tế:

Các chương trình đào tạo của ĐHQGHN được xây dựng trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo của các trường đại học tiên tiến trên thế giới. ĐHQGHN thực hiện triết lý đào tạo thông qua nghiên cứu, xây dựng các nhóm nghiên cứu (NNC) để đào tạo trình độ cao và phát triển tiềm lực KHCN. Đến nay, ở ĐHQGHN có hàng trăm NNC lớn nhỏ, trong đó có 27 NNC đã được Giám đốc ĐHQGHN công nhận là NNC mạnh cấp ĐHQGHN. Các NNC này đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở các ngành đào tạo mới, bộ môn/PTN mới của ĐHQGHN trong những năm qua.

Cũng nhờ đào tạo thông qua nghiên cứu, các em sinh viên, học viên cao học, NCS được tham gia hoạt động trong môi trường các NNC, thắp sáng tài năng. Đến nay, đã có nhiều em sinh viên năm cuối và trên trên 80% NCS trong lĩnh vực KHTN – Công nghệ của ĐHQGHN có công bố trên các tạp chí quốc tế ISI. Không ít NCS được đào tạo trong nước, ở ĐHQGHN có số lượng và chất lượng các công bố quốc tế cao hơn so với các NCS được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài.

Nhiều em học sinh vào ĐHQGHN đã được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình, tâm huyết của các giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành, những người thầy tâm huyết, có môi trường nghiên cứu, học tập tốt và đã được phát huy năng lực và tỏa sáng, đạt được thành tích xuất sắc trong học tập và nghiên cứu. Nhiều cựu sinh viên ưu tú của ĐHQGHN đã trở thành các nhà lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học, quản lý có tên tuổi. 1/4 thế kỷ qua, ĐHQGHN đã góp phần hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo nhân tài chất lượng cao, trình độ cao cho đất nước.

Thứ năm, ĐHQG tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nghề đào tạo, đáp ứng yêu cầu của đất nước, của thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0:

Việc phát triển các ngành mới có tính liên ngành, mũi nhọn những lĩnh vực kỹ thuật công nghệ mà xã hội có nhu cầu cao về nguồn nhân lực, cũng như đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0 đang được ĐHQGHN chú trọng đặc biệt và có sự đột phá, trong đó phải kể đến các chương trình đào tạo mới, tiên phong như Kĩ thuật năng lượng, Kỹ thuật môi trường, Kỹ thuật hạ tầng, Công nghệ nano, Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, Công nghệ hàng không vũ trụ, Robotic, An toàn thông tin, Quản trị các tổ chức tài chính, Kinh tế biển, Biến đổi khí hậu,…

Với trên 400 chương trình đào tạo ở các bậc đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, từ lúc chỉ hoàn toàn các ngành khoa học cơ bản, sau 25 năm xây dựng và phát triển, đến nay ĐHQGHN đã đạt cơ cấu ngành nghề đào tạo như sau: khoa học tự nhiên, y dược 25%; khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế, ngoại ngữ, luật, giáo dục 45%; công nghệ – kỹ thuật 15%; liên ngành và thí điểm 15%. ĐHQGHN đã tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nghề từ KHCB sang gắn với kỹ thuật, công nghệ và thực tiễn. Nhờ vậy, ngành nghề đào tạo của ĐHQGHN nhanh chóng tiếp cận hội nhập với thế giới, gắn kết chặt chẽ với công nghiệp và doanh nghiệp, cũng như tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm ngày càng cao.

Tóm lại, hoạt động đào tạo đã có những đóng góp quan trọng và xứng đáng vào sự phát triển và lớn mạnh của ĐHQGHN, đóng góp tich cực và hiệu quả vào những đổi mới của ngành giáo dục đại học như đào tạo tài năng, chất lượng cao; tổ chức quản lý đào tạo theo tín chỉ; phát triển theo mô hình đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện đào tạo qua nghiên cứu và chú trọng xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong trường đại học; đảm bảo chất lượng giáo dục; kiểm định, phân tầng và quy hoạch chương trình đào tạo; đổi mới tuyển sinh theo đánh giá năng lực; tiên phong mở các chương trình đào tạo mới thí điểm và hiện đại, đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, và thực hiện hội nhập với nền giáo dục đại học của thế giới. Thành quả lớn nhất của 25 năm qua là từ chính những học trò của mình, ĐHQGHN đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của nhà trường.

Qua 1/4 thế kỷ, chúng ta hết sức tự hào về những thành tựu mà các thế hệ lãnh đạo, các thế hệ thầy và trò, các thế hệ cán bộ khoa học đầu ngành, đầu đàn tài năng và tâm huyết, các GS, PGS, TSKH, TS – những trí thức ưu tú của ĐHQGHN và của nước nhà; các thế hệ cán bộ, viên chức, giảng viên, nghiên cứu viên, và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đào tạo đầy trách nhiệm và nhiệt huyết của ĐHQGHN qua các thời kỳ đã đóng góp và đạt được trong 25 năm qua, đồng thời cũng nhận thức đầy đủ những cơ hội, cũng như những thách thức trong tình hình và bối cảnh mới.

Giáo dục đại học đứng trước những thách thức về chất lượng; công ăn việc làm của người học sau khi tốt nghiệp và hội nhập với các chuẩn mực của quốc tế. Chính vì vậy, Bộ Giáo dục Đào tạo đang có những chỉ đạo quyết liệt và giải pháp hữu hiệu để đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học Việt nam. Đảng ủy và Ban Giám đốc ĐHQGHN đã chỉ đạo trong thời gian tới tập trung hoàn thiện mô hình tự chủ đại học, trong hoạt động đào tạo tập trung vào nâng cao và mở rộng quy mô đào tạo các chương trình chất lượng cao; ưu tiên và tập trung nguồn lực cho đào tạo tiến sĩ, thu hút nhân tài, phát triển các nhóm nghiên cứu để tạo nguồn nhân lực kế cận và thúc đẩy công bố quốc tế, qua đó duy trì và nâng cao xếp hạng đại học; phát huy thế mạnh thống nhất và liên thông liên kết trong toàn ĐHQGHN, nâng cao khả năng thực hành, thực tập, thực tế và qua đó nâng cao chất lượng đào tạo và cơ hội việc làm cho sinh viên.

Nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập (1993-2018), chúc ĐHQGHN ngày càng phát triển, luôn xứng đáng là đầu tàu đổi mới, là đại học hàng đầu, nòng cột trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, hội nhập ngày càng mạnh mẽ và luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ giáo dục Đào tạo và các bộ ngành và toàn xã hội để phát huy tối đa nội lực và thu hút tối đa các nguồn lực, sớm có tên trong bảng xếp hạng đại học có thứ hạng cao của khu vực và thế giới, đáp ứng mong mỏi của xã hội và nhân dân cả nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN
Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN

visio 2016 kaufen

Nghề nghiệp và cơ hội việc làm cho sinh viên ngành Công nghệ Kỹ thuật xây dựng của Trường Đại học Công nghệ

Xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng cơ sở cho mỗi quốc gia là lĩnh vực quan trọng, nhiệm vụ này phải đi trước, hoàn thiện trước để hỗ trợ, kích thích các lĩnh vực hoạt động công nghiệp, kinh tế xã hội hoạt động và phát triển thuận lợi hơn. Tất cả các nước phát triển đều có hệ thống hạ tầng cơ sở về giao thông, xây dựng, công nghiệp, thủy lợi … với quy mô, hoàn thiện khả năng khai thác cao. Ở các nước tư bản phát triển như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản thời kỳ những năm thập kỷ 70 và 80, cùng với tốc độ phát triển kinh tế vũ bão thì đã bắt đầu có nhu cầu rất lớn về xây dựng, đô thị hóa và phát triển hệ thống công trình hạ tầng cơ sở. Trong khối lượng xây dựng khổng lồ đó đã nảy sinh rất nhiều các vấn đề liên quan đến thực tiễn xây dựng như vật liệu mới có tính năng, cường độ cao hơn, các công nghệ mới có năng lực vận hành tốt hơn, các quy trình thiết kế mới vừa đảm bảo tính an toàn nhưng đồng thời đem lại các hiệu quả kinh tế kỹ thuật. Để đáp ứng được các đòi hỏi như vậy thì đội ngũ về nhân lực cũng cần phải được chuẩn bị, đào tạo về mọi mặt và ở các cấp độ khác nhau.

Ở Việt nam, sau gần 30 năm kể từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển đòi hỏi phải đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng như xa lộ, đường sắt, cảng biển, sân bay và đầu tư vào hỗn hợp năng lượng hiệu quả như các nhà máy thủy điện, chạy than và khí đốt… Trong thập niên vừa qua, tổng đầu tư hạ tầng ở Việt Nam đã chiếm bình quân hơn 10% GDP, vượt qua khỏi các nền kinh tế Đông Á vốn nổi tiếng về mức đầu tư cơ sở hạ tầng cao. Kết quả từ tỉ lệ đầu tư cao của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quy mô đô thị hóa, phát triển mạnh cơ sở hạ tầng, góp phần vào sự thành công về tăng trưởng và phát triển của đất nước.

Trong 2 thập kỷ đã qua, Việt Nam có rất nhiều những công trình xây dựng và giao thông hiện đại phục vụ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu sử dụng của người dân. Ở khu vực phía bắc các công trình xây dựng và giao thông tiêu biểu như hệ thống đường Cao tốc Hà Nội – Lào Cai, Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Đại lộ Thăng Long, Đường Vành đai 3 Hà Nội, Cảng hàng không quốc tế Nội Bài… Các hệ thống giao thông mới này thúc đẩy sự phát triển kinh tế của toàn khu vực cũng như nâng cao sự tiện lợi trong lưu thông hàng hóa và nhu cầu đi lại của người dân giữa Thủ Đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tại khu vực phía Nam có rất nhiều hệ thống đường cao tốc tương tự như TPHCM-Long Thành – Dầu Giây, TPHCM – Trung Lương… Một số công trình lớn hiện đang thi công như dự án đường sắt đô thị Hà Nội – TPHCM. Bên cạnh đó hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước cũng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ tại các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và TPHCM, cũng như nhiều đập, hồ trữ nước phục vụ nông nghiệp, phòng chống hạn hán và phát điện trong cả nước.

Ngoài ra, các đô thị lớn của Việt Nam đặc biệt là Hà Nội và TPHCM đang phải đối mặt với vấn đề dân số tập trung quá đông. Tỷ lệ dân số tập trung cao dẫn đến đô thị trên thế giới hiện đối mặt với rất nhiều vấn đề như : vấn đề giao thông, vấn đề môi trường, vấn đề rác thải, vấn đề ô nhiễm nguồn nước, vấn đề xuống cấp của cơ sở hạ tầng, dễ bị tổn thương trước thiên tai và thảm họa (cháy nhà, bão, lũ lụt…)… Do đó việc phát triển và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng và giao thông để duy trì và phát triển đô thị bền vững là nhu cầu cấp bách.

Năm 2017, trường Đại học Công nghệ đã tuyển sinh đào tạo ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông (mã ngành thí điểm). Năm 2018, ngành này đã có trong danh mục đào tạo của Bộ, tách ra thành ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng (mã ngành: 7510103) và Công nghệ kỹ thuật giao thông (mã ngành: 7510104) và năm 2018 tuyển sinh ngành Công nghệ kỹ thuật Xây dựng.

Chương trình đào tạo cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực Civil Engineering như University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc).

GS Nguyễn Đình Đức, GS Hironori Kato và các học trò  tại công trường thi công cầu dây văng Bình Khánh (Sông Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh)

Chương trình cũng phát huy thế mạnh liên ngành của trường Đại học Công nghệ như  Công nghệ Thông tin, Điện tử và Vi cơ điện tử, Cơ học Kỹ thuật, cũng như môi trường và phát triển bền vững của các cơ sở khác trong toàn ĐHQGHN trong chương trình đào tạo, đặc biệt thể hiện trong các môn học mang tínhthời sự như: Thiết kế xây dựng các công trình đặc biệt, Thiết kế hệ thống cơ – điện trong xây dựng, Phát triển bền vững trong xây dựng – giao thông, Năng lượng mới và tiết kiệm năng lượng trong xây dựng, Quản lý và phát triển dự án, Duy tu và bảo trì công trình, …

Chương trình có sự tham gia xây dựng chương trình, tham gia giảng dạy của các chuyên gia từ tất cả các đại học lớn, đầu ngành trong lĩnh vực này trên địa bàn Thủ đô: Trường ĐH Giao thông Vận tải, trường ĐH Xây dựng, trường ĐH Thủy lợi, trường ĐH Việt Nhật và các doanh nghiệp Việt Nam, nước ngoài trong lĩnh vực này; Tận dụng được quan hệ hợp tác chặt chẽ với chương trình thạc sỹ kỹ thuật của trường Đại học Việt Nhật và các doanh nghiệp của Nhật bản tại Việt nam trong lĩnh vực này.

Đặc sắc của chương trình là có những học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức về công nghệ kỹ thuật xây dựng gắn với phát triển bền vững, quy hoạch vùng và lãnh thổ, thích ứng với biến đổi khí hậu, công trình xanh, phong thủy.

GS Nguyễn Đình Đức và các học trò ngành kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật tại hầm Metro, bên máy khoan đào TBM  đangthi công đường hầm Metro  (Metro Bến Thành – Suối Tiên, TP Hồ Chí Minh)

Các hướng đào tạo và nghiên cứu chính của nhà trường trong lĩnh vực này gồm:

  • Vật liệu và kết cấu tiên tiến ứng dụng trong xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Xây dựng dân dụng và công nghiệp
  • Thiết kế, thi công, xây dựng nhà cao tầng
  • Thiết kế xây dựng, thi công công trình ngầm và các công trình đăc biệt
  • Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật mới trong xây dựng, giao thông và hạ tầng thích hợp với biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan
  • Thiết kế, thi công đường ô tô
  • Thiết kế, thi công cầu
  • Quy hoạch đô thị
  • Kinh tế xây dựng và quản lý dự án
  • Duy tu, bảo dưỡng công trình xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Kiến trúc và Phong thủy trong xây dựng

Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ PGS.TS Nguyễn Việt Hà và TS Hà Minh, Tổng Giám đốc Tổng Công ty CONICO ký kết hợp tác trong lĩnh vực xây dựng

Đặc biệt, ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của nhà trường có nhóm nghiên cứu mạnh do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chủ trì, thu hút được nhiều tiến sĩ trẻ và các NCS, sinh viên của nhiều trường đại học trong nước và quốc tế tham gia, có nhiều kết quả nghiên cứu xuất sắc được công bố trên các tạp chí khoa học ISI có uy tín của quốc tế và đã được Giám đốc ĐHQGHN ký quyết định công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh của ĐHQGHN.

Ngành công nghệ – kỹ thuật xây dựng – giao thông của nhà trường đã có hợp tác về nghiên cứu và đào tạo với cáccơ quan khoa học và ứng dụng hàng đầu của quốc gia, quốc tế để triển khai các hướngnghiên cứu như: Hợp tác với Viện Khoa học công nghệ xây dựng Việt Nam; Tổng  Công ty CONICO để triển khai các hướng nghiên cứu về tiêu chuẩn kỹ thuật công trình, các tiêu chuẩn công trình xanh; các công nghệ thiết kế hiện đại nhất về nhà cao tầng. Hợp tác với FACON và Shimizu (Nhật Bản) đào tạo và nghiên cứu về công nghệ – kỹ thuật các công trình ngầm, các công trình đặc biệt, các kỹ thuật chống xói lở đất và cấp thoát nước ngầm. Hợp tác với ĐH Công nghệ Melbourne, ĐH Birmingham nghiên cứu về tối ưu hóa và robotic, về chế tạo vật liệu mới composite. Hợp tác với Khoa Xây dựng ĐH Tổng hợp Melbourne (Úc) về các vật liệu đặc biệt chịu tải trọng nổ. Hợp tác với ĐH Tsukuba  (Nhật Bản) về dự báo mưa, nghiên cứu hiện tượng đảo nhiệt đô thị và dự báo các điều kiện thời tiết cực đoan ứng phó với biến đổi khí hậu. Hợp tác với Khoa Xây dựng và Kiến trúc ĐH Tokyo (Nhật Bản), Viện Công nghệ Tokyo (Nhật Bản), ĐH Yonsei, ĐH Sejong (Hàn Quốc),… cũng như các đại học lớn của Việt Namnhư Trường ĐH Xây dựng Hà Nội, ĐH Giao thông, ĐH Thủy Lợi, Tổng cục khí tượng Thủy văn quốc gia để triển khai giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật xây dựng, giao thông và kỹ thuật hạ tầng.

Bên cạnh đó, chương trình tận dụng được PTN kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật, Phòng Thực hành của Khoa Cơ kỹ thuật, các PTN của các đối tác lớn trên địa bàn Hà Nội.

Chương trình chú trọng đến các đồ án và các kỳ thực tập: 2 Đồ án bắt buộc (một đồ án sau khi kết thúc các môn cơ sở của ngành, đồ án 2 sau khi sinh viên đi vào các chuyên ngành), với 3 đợt thực tập: Thực tập tìm hiểu về nghề nghiệp, Thực tập kỹ thuật và Thực tập tốt nghiệp, cung cấp cho sinh viên kỹ năng học đi đôi với hành, thông qua các bài tập và các bài tính toán thiết kế trong đồ án và kỳ thực tập này. và tạo cơ hội cho sinh viên có điều kiện cho sinh viên thực hành thực tập ở các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, cũng như trao đổi sinh viên với các trường đại học của nước ngoài trong quá trình học tập.

Nhà trường cam kết sinh viên tốt nghiệp ngành này ở Đại học Công nghệ ra trường có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực Công nghệ – Kỹ thuật Xây dựng.

                                                                                                                                     GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

                                                                                                                     Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông

.

360 total security kaufen

HỘI NGHỊ QUỐC TẾ ACCMS 9/2018 TẠI HÀ NỘI

ĐHQGHN tổ chức đăng cai Hội nghị quốc tế ACCMS vào tháng 9/2018.
Đây là Hội nghị lớn, có sự tham gia của nhiều nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực tính toán trong khoa học vật liệu trên toàn thế giới. Trân trọng thông báo tới các thầy/cô; các nhà khoa học, các đồng nghiệp trong và ngoài nước, các em NCS, học viên cao học, sinh viên biêt, tham gia. Thông tin về Hội nghị có thể tìm hiểu trên trang web sau: http://accms2018.uet.vnu.edu.vn/

Landwirtschaft macht schule praktischer unterricht https://ghostwritinghilfe.com/bachelorarbeit-schreiben-lassen/ auf dem bauernhof zum thema milch.

avast kaufen

Trường Đại học Công nghệ thành lập Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông trực thuộc trường

Ngày 28/3/2018, Hiệu trưởng Nguyễn Việt Hà đã ký quyết định số  252/QĐ-ĐHCN về việc thành lập Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông trực thuộc Trường Đại học Công nghệ (ĐHCN) trên cơ sở Phòng thí nghiệm (PTN) Vật liệu linh kiện và kết cấu tiên tiến trực thuộc Khoa Cơ học kỹ thuật và tự động hóa.

Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông là đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trực thuộc Trường ĐHCN và hoạt động theo quy chế tổ chức, hoạt động của Bộ môn trực thuộc trường. Về mặt hành chính, Bộ môn thuộc trường tương đương cấp Khoa.

Bộ môn Công nghệ xây dựng – giao thông có chức năng đào tạo các bậc đại học, sau đại học, ngắn hạn và chứng chỉ trong lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật xây dựng, giao thông; bên cạnh đó, tiền thân là PTN Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến, Bộ môn tiếp tục nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành vật liệu và kết cấu tiên tiến kỹ sư cơ học kỹ thuật; đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ cơ học kỹ thuật.

1

Nghiên cứu và chuyển giao, ứng dụng công nghệ, chuyển giao tri thức, triển khai các hoạt động hợp tác trong và ngoài nước, trong lĩnh vực xây dựng, giao thông.

Tham gia đào tạo, triển khai các hoạt động thực hành, thực tập cho người học các ngành/chuyên ngành khác của Trường ĐHCN theo phân công.

Những hướng đào tạo và nghiên cứu chính của Bộ môn được đề ra là:

  • Vật liệu và kết cấu tiên tiến ứng dụng trong xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Xây dựng dân dụng và công nghiệp
  • Thiết kế, thi công, xây dựng nhà cao tầng
  • Thiết kế xây dựng, thi công công trình ngầm và các công trình đăc biệt
  • Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật mới trong xây dựng, giao thông và hạ tầng thích hợp với biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan
  • Thiết kế, thi công đường ô tô
  • Thiết kế, thi công cầu
  • Quy hoạch đô thị
  • Kinh tế xây dựng và quản lý dự án
  • Duy tu, bảo dưỡng công trình xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Kiến trúc và Phong thủy trong xây dựng

2

Bộ môn là đầu mối triển khai chương trình đào tạo kỹ sư ngành công nghệ kỹ thuật xây dựng – Giao thông. Các giáo sư, tiến sĩ, nghiên cứu sinh và các em sinh viên của Bộ môn được tham gia đào tạo gắn với nghiên cứu và thực tiễn, hoạt động trong môi trường nhóm nghiên cứu quốc tế, có nhiều kết quả xuất sắc được công bố trên các tạp chí khoa học ISI có uy tín của nước ngoài. Giảng viên được mời giảng dạy kiêm nhiệm từ nhiều trường đại học có uy tín trong lĩnh vực chuyên môn như ĐH Xây dựng Hà Nội, ĐH Giao thông, ĐH Thủy lợi, Viện Khoa học  côn nghệ Xây dựng, ĐH Việt Nhật,… Sinh viên của ngành có nhiều cơ hội được nhận học bổng của các đối tác, doanh nghiệp. Mặc dù mới thành lập nhưng Bộ môn đã có nhiều hợp tác với doanh nghiệp, đối tác ở trong và ngoài nước, các trường đại học lớn của quốc tế như: ĐH Tổng hợp Tokyo, Viện Công nghệ Tokyo (Nhật Bản), ĐH Sejong, ĐH Yonsei (Hàn Quốc), Birmingham University, Kingston University (Vương quốc Anh), ĐH Vũ Hán (Trung Quốc), Melbourne University, Sydney University of Technology (Úc),…

Sự ra đời của bộ môn đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh vượt bậc của Trường ĐHCN cũng như ĐHQGHN, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành nghề đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của thời đại và của đất nước.

Trường ĐHCN đã bắt đầu tuyển sinh ngành này từ năm 2017, và năm nay là năm thứ 2, với 100 chỉ tiêu.

Newer post older post home march , 2017 below is a collection of some of the best google apps for teachers and help for homework with https://homeworkhelper.net/ educators using android.

kaspersky kaufen

Vật liệu polymer composite sợi thủy tinh Sản phẩm Việt với chất lượng quốc tế

Our selection is write my essays based on our previous reviews of apps and tools created and shared by googles.

mcafee kaufen

NGƯỜI THẦY CÓ 2 HỌC TRÒ XUẤT SẮC ĐƯỢC NHẬN GIẢI THƯỞNG NGUYỄN VĂN ĐẠO

Năm nay giải thưởng Nguyễn Văn Đạo năm 2018- giải thưởng danh giá nhất của ngành Cơ học Việt Nam được trao cho TS Hoàng Văn Tùng,
giảng viên ĐH Kiến trúc , học trò của GS Nguyễn Đình Đức.
Như vậy đến nay ngành Cơ học Việt Nam có 4 người được nhận giải thưởng này:
1. TS. Nguyễn Xuân Hùng, ĐHKHTN HCM, 2011
2. TS. Lê Đình Tuân, ĐHBK HCM, 2014
3. TS. Trần Quốc Quân, ĐH Công nghệ, ĐHQGHN, 2016
4. TS. Hoàng Văn Tùng, ĐH Kiến trúc HN, 2017
Trong số 4 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo đã có 2 là học trò GS Nguyễn Đình Đức là:
Trần Quốc Quân, SN 1991, giải thưởng NVĐ 2016
Hoàng Văn Tùng, SN 1981, giải thưởng NVĐ 2017
TS Trần Quốc Quân được giải thưởng Nguyễn Văn Đạo khi còn rất trẻ, mới 25 tuổi đời và khi đó vẫn còn đang là NCS của Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN;
TS Hoàng Văn Tùng nguyên là NCS của trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN.
Cả 2 em đều là là học trò được GS Nguyễn Đình Đức hướng dẫn trực tiếp làm luận án TS.
ĐQGHN xứng đáng là cái nôi đào tạo nhân tài.
Xin chúc mừng TS Hoàng Văn Tùng, chúc mừng GS Nguyễn Đình Đức và cả nhóm nghiên cứu của ông.
Thành công của 2 em sẽ là động lực để các thế hệ đàn em đi sau tiếp bước.
Hy vọng Nhóm nghiên cứu của GS Đức sẽ có nhiều học trò xuất sắc như thế, được vinh danh bằng các giải thưởng quốc gia, quốc tế.
GS Nguyễn Văn Đạo nguyên là Giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN, nguyên Chủ tịch đầu tiên Hội Cơ học Việt Nam, ông cũng là Chủ tịch Hội đồng Quỹ trong KHTN, tiền thân của Quỹ Nafosted ngày nay.
Trong ảnh: GS Nguyễn Đình Đức cùng GS Nguyễn Văn Đạo trong chuyến thăm Hàn Quốc năm 2005:
Thăm Tập đoàn SK; Quỹ nghiên cứu Hàn Quốc, ĐH Seoul và Viện KIST

autocad lt kaufen

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Người con miền đất học Lai Xá

NGƯỜI CON MIỀN ĐẤT HỌC LAI XÁ:
LÀNG LAI XÁ – thuộc xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội nằm ngay sát thị trấn Nhổn, cách Trung tâm Thủ Đô Hà Nội tầm 13 km, là miền đất học. Thánh Hoàng Làng của làng là đức Thánh Trần Cao (thân sinh Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Ngài đã có thời gian sống ở đây, giúp dân làng sinh cơ lập nghiệp, vì vậy dân làng phải luôn phải kiêng kỵ tránh phạm húy, nói trệch “cao”” thành “”kiêu”). Đây cũng là quê hương của GS Nguyễn Văn Huyên nguyên Bộ trưởng Bộ giáo dục đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quê hương của GS Nguyễn Quang Riệu (Việt Kiều Pháp), nhà thiên văn học xuất sắc. Đây cũng là làng nghề Nhiếp Ảnh nổi tiếng và là quê hương của cụ Khánh Ký, cụ tổ làng nghề Nhiếp Ảnh Lai Xá (người đã truyền nghề ảnh cho Nguyễn Ái Quốc khi Người còn trẻ, hoạt động cách mạng ở Paris), và Lai xá quê ngoại, cũng là mảnh đất chân rau cắt rốn, nơi sinh của GS Nguyễn Đình Đức, Giám đốc PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến.
Trân trọng giới thiệu với các bạn bài viết này trên báo “” Việt Nam hội nhập”” số tháng 11-2017, tháng tri ân các thầy cô giáo của Việt Nam:

VNHN – Hình ảnh in đậm trong tâm trí của nhiều người đã từng làm việc và tiếp xúc với ông chính là nhiệt huyết và sự uyên thâm của một nhà khoa học, kinh nghiệm và năng lực cao của một nhà quản lý, cùng cái tâm nghề, tâm đời mà ông luôn gìn giữ trong cuộc sống và sự nghiệp. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo đại học và sau đại học (Đại học QGHN) mãi là tấm gương sáng về một người trí thức để lớp trẻ học tập, noi theo.

Một thời để nhớ

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sinh năm 1963 trong một gia đình có truyền thống hiếu học và cách mạng tại thôn thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ), nay thuộc Hà Nội. Quê nội ông ở thôn Huề Trì, xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương – mảnh đất địa linh nhân kiệt. Bố mẹ ông đã để lại cho ông niềm tự hào về truyền thống gia đình, về ý chí vươn lên vì nghĩa lớn; để rồi khi trưởng thành, dẫu phải trải qua bao gian khó, nhọc nhằn, ông vẫn không nản chí, vẫn vượt qua tất cả để thực hiện hoài bão của mình.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Năm 6 tuổi, Nguyễn Đình Đức đã sớm xa quê hương vì gia đình lên lập nghiệp ở Yên Bái, một thị xã miền núi Tây Bắc. Ông là học sinh xuất sắc nhất của lớp chuyên toán khóa 1 của tỉnh Hoàng Liên Sơn (1978), và cũng là thủ khoa của Khoa Toán – Cơ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khi chưa đầy 21 tuổi (1984), ông được trường Đại học Tổng hợp đề nghị và Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ (khi đó đang là Bộ trưởng Bộ Đại học) quyết định cho  ông được tham gia kỳ thi chọn NCS đi nước ngoài. Và ngay kỳ thi tuyển NCS năm 1985, ông đã đỗ đầu với số điểm cao nhất. Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã được Tạp chí “Who is who in the World” của Mỹ đưa vào danh mục những nhân vật nổi tiếng trong lần xuất bản thứ 18 từ năm 2001.

Ngọn lửa say mê trong học tập, khát vọng lớn lao trong nghiên cứu khoa học, đã tạo nên ở người trí thức Nguyễn Đình Đức chiều sâu của trí tuệ trong những hoạt động khoa học và hoạt động quản lý của mình trên suốt chặng đường dài cống hiến của ông. Nhưng cũng phải nói rằng, ở ông không chỉ đơn thuần là phẩm chất của một nhà khoa học, mà còn có cả bản lĩnh của một nhà quản lý giỏi. Có thể nói, những năm tháng đầu dựng nghiệp của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức không phải là một mạch của sự “xuôi chiều”, mà có không ít những cung đoạn khác nhau của cuộc sống và sự nghiệp. Nhưng dẫu sao, sự vất vả đó cũng giúp ông có thêm những trải nghiệm thực tiễn, làm nền cho những bước đi tiếp theo được vững vàng hơn.

Dẫu tài không thể thiếu tâm

Sự nghiệp nghiên cứu khoa học và công tác quản lý của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức thực sự đi vào chiều sâu và mang tính tập trung cao kể từ khi ông được Bộ Đại học cử đi làm luận án tiến sĩ ở Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcơva mang tên Lômônôxốp (MGU). Đối với ông, đây chính là bước ngoặt lớn trong cuộc đời. Nơi đây chính là môi trường để ông tiếp xúc và học hỏi từ các nhà khoa học Xô Viết lỗi lạc và trưởng thành. Tại đây, ông đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ Toán – Lý với đề tài “Các tiêu chuẩn bền của composite cốt sợi đồng phương” dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Pobedrya B.E, Chủ nhiệm Bộ môn Cơ học vật liệu composite tại ĐH Tổng hợp Quốc gia Maxcơva mang tên Lômônôxốp (MGU) – nơi hội tụ của các nhà khoa học Xô Viết lỗi lạc, và sau đó tiếp tục bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ khoa học ở Viện Hàn lâm Khoa học Nga khi 34 tuổi. Kết quả nghiên cứu về composite siêu bền có cấu trúc không gian của ông đã được cấp bằng phát minh, năm 1999.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tham dự phiên họp thứ nhất Hội đồng Khoa học Đào tạo của Đại học Việt Nhật tại Nhật Bản

Trong thời gian học tập và công tác tại LB Nga, ông được tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tại LB Nga (1999-2001), thành viên nước ngoài của Viện Hàn Lâm Khoa học Tự nhiên Nga (1999) và Viện Hàn Lâm Phát minh và Sáng chế Quốc tế (1999), Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa V (1999-2004). Năm 1997, với thành tích nghiên cứu xuất sắc, TS Nguyễn Đình Đức được Trường Đại học Tổng hợp Clemson (Hoa Kỳ) mời ông sang làm trợ giảng. Trước những lời động viên cố vấn của bạn bè và nhiều đồng nghiệp khuyên ông nên sang Hoa Kỳ, nhưng ông lại quyết định tích lũy sâu hơn nữa kiến thức và kinh nghiệm để trở về Việt Nam làm việc. Bởi ông muốn phát triển hơn nữa điều kiện nghiên cứu và giảng dạy, xây dựng và đào tạo đội ngũ thế hệ trẻ giải quyết các vấn đề của thực tiễn liên quan đến composite, góp phần xây dựng ngành khoa học này ở Việt Nam.

Trở về nước, được sự tín nhiệm của GS.VS Vũ Tuyên Hoàng, khi đó nguyên là Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã là một trong những người đứng ra vận động, sáng lập và là một trong những Phó Chủ tịch đầu tiên của Hội trí thức KHCN trẻ Việt Nam (2004-2010). Bên cạnh đó, ông cũng từng là Trưởng ban Tổ chức các Hội nghị khoa học quốc gia, quốc tế lớn như Hội nghị Toàn quốc về Cơ điện tử lần thứ VI (2012), Hội nghị quốc tế về Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa ICEMA 1(2010), ICEMA2(2012), ICEMA3(2014). Đồng thời, ông cũng tham gia phản biện cho hơn 50 tạp chí quốc tế ISI, trong đó có nhiều tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực Cơ học và vật liệu mới.

Kể từ những ngày đầu bước chân vào nghiên cứu khoa học cho đến nay, ông đã chọn cho mình hướng đi bền bỉ và gắn trọn vẹn với nghiên cứu về vật liệu composite. Loại vật liệu mới có độ bền cơ học cao, vừa nhẹ và bền với các môi trường kiềm, a xít, nhiệt độ cao… mà vật liệu tự nhiên không có được.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức luôn nhiệt huyết truyền lại kiến thức cho học trò

Không thể nói là chỉ có thuận lợi, mà khó khăn cũng rất nhiều. Trong quá trình đó, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã thể hiện được cả tài năng và cái tâm nghề của mình. Với sự nghiêm túc và sáng tạo trong nghiên cứu, ông đã hội nhập với trình độ và các hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới, tiếp cận những xu thế của cuộc cách mạng 4.0 trong lĩnh vực vật liệu mới, thu được những kết quả nghiên cứu khoa học có giá trị và nhiều kết quả trong số đó đã được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín. Đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã công bố trên 200 công trình khoa học ở trong và ngoài nước, trong đó hai phần ba là các bài báo, báo cáo khoa học xuất bản, công bố ở nước ngoài với trên 100 bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI. Ông cũng đã thành công trong việc áp dụng những tính toán nghiên cứu lý thuyết của mình để đề xuất sử dụng các hạt nano titan oxit như là thành phần gia cường làm tăng khả năng chống thấm, chống giòn, chống nứt cho vật composite polymer. Sáng kiến của ông đã được áp dụng để chế tạo đà máy tàu thủy bằng composite ở một doanh nghiệp đóng tàu của Việt Nam, đồng thời, những kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của ông về nano composite hạt titan oxit không chỉ được đăng trên các tạp chí quốc tế ISI, mà còn được Cục sở sữu trí tuệ cấp patent (Bằng Giải pháp hữu ích, 2016). Sản phẩm “Thiết bị dẫn đường quán tính phục vụ dẫn đường các phương tiện chuyển động có điều khiển” của đề tài nghiên cứu khoa học hợp tác giữa trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN và Viện Tên lửa – Viện KHCN QS – Bộ quốc phòng do ông làm Phó chủ nhiệm đề tài đã được giải 3 Nhân tài đất việt năm 2008.

Với vai trò là một người thầy, ông không chỉ động viên tinh thần mà còn giúp đỡ nhiều em sinh viên giỏi có hoàn cảnh khó khăn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu. Tấm lòng nhân ái, sự say mê khoa học, tin yêu cuộc sống, sự động viên, chia sẻ của ông luôn là sự động viên khích lệ các thế hệ học sinh vững vàng ý chí và nghị lực để tiếp bước trên con đường khoa học.

Ông vẫn luôn tâm huyết miệt mài với từng trang giáo án, những bài giảng của ông luôn mang tính sáng tạo đổi mới giúp học trò tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất. Nhiều học trò của ông giờ đây đã trưởng thành và thành tài, có những người đã là thủ trưởng các đơn vị lớn như TS. Đinh Khắc Minh, là Viện trưởng Viện KHCN tàu thủy (Bộ Giao thông vận tải); TS. Hoàng Văn Tùng, là Chủ nhiệm Bộ môn Cơ lý thuyết của ĐH Kiến trúc Hà Nội. Nhiều học trò được ông hướng dẫn NCKH ngay từ những năm tháng sinh viên đã có nhiều bài báo khoa học có giá trị được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế ISI có uy tín và đạt giải nhất về nghiên cứu khoa học của trường Đại học Công nghệ cũng như của ĐHQGHN (như các em Trần Quốc Quân, Phạm Hồng Công, Vũ Văn Dũng, Phạm Toàn Thắng,…) và hầu hết các em đều là thủ khoa và được chuyển tiếp làm NCS ngay sau khi tốt nghiệp đại học.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã xuất bản 4 đầu sách chuyên khảo và giáo trình về lĩnh vực chuyên ngành giảng dạy, nghiên cứu. Đặc biệt, ông đã có sách chuyên khảo về composite 3 pha có cấu trúc không gian được xuất bản bằng tiếng Nga (năm 2000) và cuốn sách chuyên khảo bằng tiếng Anh về ổn định tĩnh và động lực học của các kết cấu tấm và vỏ vật liệu composite chức năng FGM (năm 2014), được cộng đồng khoa học quốc tế đánh giá cao. Công thức phi tuyến xác định các mô đun đàn hồi cho composite hạt nano của ông đã được cộng đồng khoa học biết đến gắn với tên “Vanin – Nguyen Dinh Duc” (GS. G.A Vanin là nhà khoa học lỗi lạc của Nga – Trưởng PTN Vật liệu composite của Viện hàn lâm Khoa học Nga).

Với những cống hiến xuất sắc cho khoa học, GS Nguyễn Đình Đức đã được mời tham gia Hội đồng quốc tế của các tạp chí quốc tế, được mời là giáo sư nghiên cứu, thỉnh giảng tại các trường đại học danh tiếng của nước ngoài như Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva mang tên Lômônôxốp (MGU), Viện nghiên cứu chế tạo máy (Viện Hàn lâm Khoa học Nga), Viện khoa học công nghệ tiên tiến của Nhật Bản (JAIST), Đại học Birminhham (University of Birmingham), Vương Quốc Anh, Đại học Tổng hợp Sejong University của Hàn Quốc,… Tên tuổi của GS Nguyễn Đình Đức và Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến do ông sáng lập đã được biết đến và có uy tín trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Cuộc đời của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là tấm gương sáng của sự kiên trì lao động và cống hiến cho khoa học, cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Ông là người có nhiều cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp xây dựng và phát triển ĐHQGHN, đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng như Trưởng ban Khoa học Công nghệ của ĐHQGHN (2005-2008), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (11.2008-9.2012) và từ 10.2012 đến nay là Trưởng ban Đào tạo ĐHQGHN. Đó là chặng đường dài cống hiến tâm sức và trí tuệ của ông cho đất nước.

Trải qua gần 40 năm hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công tác quản lý, dù ở bất cứ cương vị công tác nào – vai trò nhà giáo, nhà khoa học hay nhà quản lý – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức  cũng luôn “cháy” hết mình vì sự nghiệp chung. Đối với ông, cuộc sống sẽ thật vô vị, thật không còn ý nghĩa gì nữa nếu không làm việc và cống hiến cho cộng đồng

xã hội, cho đất nước. Vì vậy mà không khó khăn nào làm ông nản lòng, không thử thách nào làm ông nhụt chí. Những đóng góp của ông trong suốt thời gian qua thật đáng trân trọng. Nhiều thế hệ cán bộ, sinh viên, học viên được ông giảng dạy, dìu dắt  không thể quên một người thầy giản dị nhưng đầy trí tuệ với nghề, đầy nhiệt huyết với nghiệp; luôn đem hết tài và tâm của mình để cống hiến cho sự nghiệp chung. Kinh nghiệm quản lý, kết quả nghiên cứu khoa học và những đóng góp của ông không còn là của riêng ông, mà là giá trị chung của khoa học nước nhà, vì sự lan tỏa, tính thiết thực và ý nghĩa sâu sắc mà các công trình có được. Những đóng góp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học của ông đã và đang góp phần tích cực vào sự phát triển chung của Đại học QGHN, của công tác đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cao, trình độ cao cho công cuộc đổi mới đất nước./.

Khánh Linh

Nguồn Báo Việt Nam hội nhập

We have turned this collection in a handy infographic which you can download and print in pdf format from this https://homework-writer.com link.

coreldraw kaufen

GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức trả lời phóng sự trên truyền hình Hà Nội: “Vấn đề hôm nay: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Bắt đầu từ chất lượng nguồn nhân lực”

GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức trả lời phóng sự trên truyền hình Hà Nội: “Vấn đề hôm nay: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Bắt đầu từ chất lượng nguồn nhân lực”

[Video] Vấn đề hôm nay: Cách mạng công nghiệp thứ 4 – Bắt đầu từ chất lượng nhân lực

(HanoiTV) – Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đòi hỏi đội ngũ kỹ sư công nhân giảm về lượng nhưng tăng về chất. Do đó, đội ngũ cán bộ công nhân viên cần được đào tạo và có những chuyển biến tích cực thay đổi về chất.

Top educational android apps created by google toonastic 3d draw, animate, writing helper and narrate your own cartoons.

windows 8.1 pro kaufen

NGÀNH KỸ THUẬT HẠ TẦNG – HỢP TÁC SÂU SẮC NHẬT BẢN-VIỆT NAM

Cuối tháng 6-2017, Đoàn công tác của chương trình Kỹ thuật hạ tầng – ĐH Việt Nhật do GS Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN, Giám đốc chương trình), GS Hironori Kato (Đồng giám đốc chương trình) dẫn đầu và TS Phan Lê Bình (JICA) đã đưa các học viên khóa 1 – Kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật đến thực tế tại các công trình kỹ thuật lớn của Nhật Bản đang thi công tại Việt Nam.

Công trình thứ nhất mà Đoàn đi thực tế là cầu Bình Khánh – là cây cầu dây văng nằm trong dự án trọng điểm quốc gia Đường cao tốc Bến Lức – Long Thành thuộc tuyến Đường cao tốc Bắc – Nam – được biết đến là dự án đường bộ cao tốc lớn nhất miền Nam, tương lai khi đi vào hoạt động tuyến đường này sẽ giúp kết nối các địa bàn trọng điểm như TP. Hồ Chí Minh, Long An và Đồng Nai từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng vốn đầu tư và mở rộng du lịch vùng. Cầu Bình Khánh có tổng chiều dài 2.764 m, rộng 21,75 m với bốn làn xe lưu thông. Nhịp chính cầu dài 375 m, hai trụ cầu cao 155 m, tĩnh không 55 m. Nhà thầu trúng thầu là Liên doanh Shimizu Corporation – Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng và Kỹ thuật Vinaconex (liên doanh Shimizu – Vinaconex E&C) với giá trúng thầu tương ứng hơn 4 tỷ JPY và hơn 3.000 tỷ VNĐ. Cầu Bình Khánh sẽ là một trong những cây cầu có khổ tĩnh không thông thuyền lớn nhất Việt Nam, được xây dựng từ tháng 8 năm 2015 và dự kiến hoàn thành vào tháng 7 năm 2019.

Công nghệ tiêu biểu của công trình cầu này là : đây là cầu dây văng bê tông dư ứng lực và móng vòng vây cọc ống thép SPSP ( Steel Pipe Sheet Pile). Ưu điểm của cầu dây văng là một trong những hệ kết cấu phù hợp với cầu có chiều dài nhịp lớn, tối ưu hóa khả năng làm việc của tháp, cáp văng và dầm. Cầu dây văng được áp dụng cho nhịp có chiều dài từ 200 đến 1100 mét; có thể thi công bằng cách đúc hẫng ra từ tháp, biện pháp này không cần đà giáo từ mặt đất; cáp dây văng không chỉ nâng đỡ dầm trong quá trình khai thác mà cả trong giai đoạn thi công; đồng thời cầu dây văng còn có ưu điểm là tạo ra công trình và cảnh quan mang tính biểu tượng (như cầu Nhật Tân, Cầu Bính, Cầu Bãi Cháy,..). Còn hệ móng vòng vây cọc ống thép SPSP sử dụng giải pháp hệ móng cọc ống thép. Cọc ống thép và ống nối được đóng thành giếng, trụ cầu được thi công trong giếng. Cọc ống thép được sử dụng như là vòng vây ngăn nước trong quá trình thi công và cũng là hệ móng chịu lực trong quá trình khai thác.

 img_1366

Thầy và trò ngành kỹ thuật hạ tầng – ĐH Việt Nhật tại công  trường cầu dây văng Bình Khánh

Công trình thứ 2 mà Đoàn đi thực tế là Dự án Metro Bến Thành – Suối Tiên  (hay còn gọi là tuyến số 1) là một trong chuỗi dự án xây dựng hệ thống đường sắt đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh có tổng vốn 2,49 tỷ USD (hơn 47.000 tỷ đồng) do Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản cho vay với hình thức ODA, được khởi công tháng 8/2012. Tuyến có tổng chiều dài là 19,7 km, bao gồm 2,6 km đi ngầm và 17,1 km đi trên cao và là tuyến Metro đầu tiên – 1 trong 7 tuyến Metro được quy hoạch xây dựng của TP Hồ Chí Minh trong tương lai. Dự án được cho là cải thiện tình hình giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh vốn được coi là nơi xảy ra nhiều vấn đề về tắc nghẽn giao thông nhất Việt Nam, ngoài ra, theo đánh giá  dự án còn giúp nâng cao chất lượng không khí, tiết kiệm năng lượng, nâng giá trị đất và các tác động kinh tế- xã hội khác do tiết kiệm thời gian vận chuyển. Theo dự kiến đến 2020 tuyến đường sắt đô thị Metro Bến Thành – Suối Tiên sẽ được đưa vào hoạt động. Nhà thầu chính của dự án là Shimizu – Maeda, trong đó CTCP FECON là nhà thầu Việt Nam đã được liên doanh nhà thầu Shimizu – Maeda chính thức lựa chọn để tham gia vận hành trực tiếp thiết bị khoan đào cho công tác đào hầm metro.  Công nghệ tiêu biểu nhất là đào hầm bằng thiết bị khoan đào – TBM (Tunnel Boring Machine). Thiết bị đào ngầm bằng robot TBM từ Nhật Bản có tổng chiều dài 70 mét, nặng 300 tấn, với bán kính khoan đường hầm 6,79 m (hiện nay ở Nhật Bản đang thi công đường vành đai 3 ở Tokyo ở chiều sâu 60 m dưới lòng đất và sử dụng robot TBM khoan đào với bán kính khủng, lớn nhất thế giới,  tới 16,5m).  Công nghệ khoan đào bằng máy TBM có nhiều ưu điểm và tiện lợi hơn hẳn so với hầm đào hở. Máy TBM sử dụng phương pháp cân bằng áp lực đất, và kích đẩy, từ đó có thể giảm nguy cơ sụt lún mặt đất cho khu vực thực hiện dự án đào hầm ngầm và cho phép đào đến đâu lắp vách tường bê tông bao quanh mặt trong hầm ngay đến đó. Việc khoan này được thực hiên dưới độ sâu 15 – 30m, cho nên trong quá trình xây dựng tuyến hầm sẽ không cần di dời, giải tỏa các công trình trên mặt đất, vì vậy không ảnh hưởng nhiều đến đời sống sinh hoạt của người dân. Công tác trộn bê tông được thực hiện ngay tại nhà xưởng sau đó mới đưa vào hệ thống chứa bê tông của máy TBM. Vì vậy, Ban quản lý dự án có thể kiểm tra được chất lượng của bê tông, kiểm soát có hiệu quả tiến độ thi công công trình. Trung bình 1 ngày, robot TBM có thể khoan 12m đường hầm. Sau mỗi lần khoan được 1,2m sẽ lắp đặt 6 tấm bê tông làm vách hầm xong mới khoan tiếp. Các tấm bê tông này được đúc sẵn, kết nối với nhau bằng các đoạn thép vít và lớp cao su vĩnh cửu để ngăn thấm nước – tất cả được sản xuất chế tạo từ Nhật Bản.

 

img_1468

 Thầy và trò ngành kỹ thuật hạ tầng của ĐH Việt Nhật tại hầm Metro , TP Hồ Chí Minh

Công trình thứ 3 mà Đoàn khảo sát là hiện trường thi công của Dự án cải thiện môi trường nước Tp Hồ Chí Minh giai đoạn 2. Dự án cải thiện môi trường nước Tp Hồ Chí Mình được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương phê duyệt vào năm 2006, sau khi thiết kế dự toán và tuyển chọn nhà thầu, dự án được khởi động thi công lần lượt các gói thầu từ năm 2015 và dự kiến hoàn thành vào năm 2020. Mục tiêu chính của dự án là tiếp tục hoàn thiện hệ thống thoát nước mưa, góp phần giảm ngập cho lưu vực kênh Tàu Hũ – Bến Nghé – Đôi – Tẻ theo quy hoạch tổng thể thoát nước của TP.HCM, cùng với đó chỉnh trang đô thị, cải thiện môi trường nước, khắc phục tình trạng ô nhiễm nước trên tuyến kênh này thông qua việc xây dựng và phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải. Tổng mức đầu tư của Dự án là 11.282 tỷ VND (trong đó, vốn ODA: 85,625 tỷ JPY tương đương 9.832 tỷ VNĐ chiếm 87% tổng mức đầu tư). Các hạng mục công trình của Dự án sẽ được triển khai, xây dựng trên địa bàn 7 quận/ huyện của TP.HCM, gồm Quận 4, 5, 6, 8, 10, 11 và huyện Bình Chánh với tổng diện tích lưu vực 2150 ha. Tại gói thầu G: Xây dựng hệ thống cống bao gom xử lý nước thải với tổng cộng  33.768m cống bao thu gom nước thải, được thực hiện bởi liên doanh công ty Yasuda-Kolon -và là nhà thầu chính trong gói thầu này. Công nghệ tiêu biểu là khoan kích ống, điểm khác biệt so với công nghệ khoan hầm Metro là sau khi đẩy mũi khoan đi sâu vào lòng đất thì những đốt ống dài khoảng 2,5m được kích đẩy tiến lên theo để tạo thành đường ống liên tục . Ngoài công nghệ khoan, công nghệ trắc đạc tiên tiến được áp dụng vào đây để giúp điều chỉnh hướng mũi khoan được chính xác, có thể uốn lượn trong lòng đất trong quá trình khoan chứ không chỉ khoan theo đường thẳng. Phương pháp mới này sẽ thay thế phương pháp đào, lấp thông thường, đồng thời giảm thời gian thi công cũng như giảm những tác động tiêu cực đến bộ mặt đô thị. Hiện nay các dự án cung cấp xử lý đường ống cấp thoát hầu hết được thi công bằng phương pháp đào mở nên dù hình thức đơn giản, chi phí thấp nhưng khó quản lý. Trong khi đó việc thi công lại kéo dài, gây mất mỹ quan đô thị, để lại hậu quả là những con đường chắp vá. Hạn chế lớn nhất của phương pháp đào mở là chỉ phù hợp cho việc thi công ở độ sâu ngắn, nằm ngay gần mặt đất. Khoan kích ống ngầm là phương pháp thực hiện thiết lập cửa hầm đầu và cửa hầm cuối của đoạn đường cống ngầm cần lắp đặt. Dùng kích đẩy máy đào từ cửa hầm đầu hướng về cửa hầm cuối, sau đó đặt các đoạn ống (bê tông) đã được làm sẵn nối tiếp sau máy đào và kích đẩy dần các đoạn ống này nối tiếp theo máy đào cho đến khi đầu mối chạm đến cửa hầm cuối tạo thành một đường cống ngầm dài xuyên suốt. Công nghệ kích đẩy bằng định vị điều khiển tự động nên không cần sử dụng con người. Nếu dùng nhân công sẽ nguy hiểm và tiến độ rất chậm. Các ưu điểm của công nghệ này có thể liệt kê: Về mặt kỹ thuật, có thể thi công ở những độ sâu khác nhau. Thông thường chiều sâu kinh tế để áp dụng phương pháp kích ống khi độ sâu chôn ống ≥ 6m. Ở những độ sâu thấp hơn, phương pháp kích ống được xem xét trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác như tài chính, môi trường; tiếp đó công nghệ này ngăn sự thâm nhập của nước ngầm bằng các gioăng kín nước; Rủi ro sụt lún thấp; Xáo động tối thiểu trên mặt đất; Giảm thiểu khối lượng công tác đào đắp, công tác tái lập; Ít ảnh hưởng đến các công trình hạ tầng kỹ thuật khác. Về mặt môi trường so với phương pháp đào hở truyền thống là sẽ giảm được khối lượng vật tư “đến” và “đi” cùng với việc giảm được công tác đổ đất và công tác san lấp tái lập lại mặt bằng. Trong nhiều trường hợp việc sử dụng kỹ thuật kích ống thay vì đào hở sẽ đem lại ảnh hưởng tích cực đến an toàn tại nơi làm việc, đến đời sống người dân quanh khu vực thi công, đến môi trường tại địa phương.

Có thể đánh giá Nhật Bản là quốc gia có công nghệ kỹ thuật hạ tầng hiện đại và tiên tiến nhất thế giới và những công nghệ hiện đại đó đang được triển khai tại Việt Nam. Nguồn vốn ODA của Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam dành tỷ lệ rất lớn cho cơ sở hạ tầng. Chỉ riêng trong khoảng thời gian từ 1992-2011, Nhật Bản đã dành 19,7 tỷ USD nguồn vốn ODA cho Việt Nam, kết quả đã mở thêm 3309 km đường, xây dựng được 287 cây cầu các loại  và tăng thêm sản lượng 4500 MW  điện, và nguồn ODA này vẫn đang tiếp tục được đầu tư ngày càng lớn và hiệu quả cho Việt Nam.

Chính vì vậy, việc thành lập và đào tạo ngành kỹ thuật hạ tầng có mục tiêu trước hết là tận dụng thế mạnh về khoa học công nghệ tiên tiến của Nhật Bản, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tiếp quản và chuyển giao những công nghệ tiên tiến của Nhật bản cho Việt Nam, đồng thời cũng đào tạo nguồn nhất lực chất lượng cao có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động toàn cầu. Cần nhấn mạnh là khái niệm về kỹ thuật hạ tầng của Việt Nam và khái niệm về kỹ thuật hạ tầng của Nhật Bản và thế giới đang có sự khác biệt rất lớn. Ở Việt Nam, nói đến kỹ thuật hạ tầng, làm người ta hiểu đó là kỹ thuật các công trình hạ tầng cấp thoát nước giao thông, đô thị, các công trình thủy lợi. Theo nội hàm và nội dung đào tạo của Nhật Bản cũng như thế giới, thì kỹ thuật hạ tầng ( Infrastructure Engineering) là khái niệm rất rộng, thực chất là  công nghệ kỹ thuật trong xây dựng, giao thông, thủy lợi.

Chương trình đào tạo thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật được xây dựng trên cơ sở hợp tác với đối tác chính là Đại học Tokyo (Đại học hàng đầu của Nhật Bản và là một trong những đại học lớn hàng đầu của thế giới), và khoảng 10 trường đại học khác của Nhật Bản tham gia. Chương trình bao gồm khối kiến thức chung, kiến thức cơ bản và cụ thể. Các môn học với kiến thức chung sẽ giúp học viên có kiến thức bao quát về khoa học bền vững, xã hội và môi trường. Trong khi đó, các khóa học cơ bản, cụ thể giúp họ tích lũy kiến thức và kỹ năng cốt lõi liên quan đến 7 lĩnh vực chủ yếu là (1) xây dựng dân dụng và công nghiệp, (2) công trình giao thông, thủy lợi (3) xây dựng cầu và đường, (4) quy hoạch (lãnh thổ, vùng và đô thị), (5) công nghệ vật liệu mới trong xây dựng và giao thông, kết cấu hạ tầng (6) duy tu, bảo trì công trình xây dựng, giao thông, thủy lợi và (7) quản lý các dự án.

Từ những nền tảng kiến thức, sinh viên có thể thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu trong các lĩnh vực nêu trên với các giảng viên Việt Nam và Nhật Bản. Hơn 50% giảng viên của chương trình kỹ thuật hạ tầng đến từ trường Đại học Tokyo và các trường đại học uy tín khác ở Nhật Bản. Chương trình này cũng góp phần nâng cao kỹ năng thực hành cho học viên thông qua thực thành tại các phòng thí nghiệm hiện đại, qua các kỳ thực tế tại các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực này (và những chuyến đi thực tế như vừa rồi tại các công trình của Nhật Bản đang thi công ở Việt Nam là một ví dụ – toàn bộ chi phí do JICA và Đại học Việt Nhật tài trợ), cũng như ba tháng thực tập tại các phòng thí nghiệm và các doanh nghiệp tại Nhật Bản (chi phí cho chuyến đi của học viên được tài trợ 100% bới chính phủ Nhật Bản).

Bên cạnh đó, trường Đại học Việt Nhật xác định là trường đại học nghiên cứu tiên tiến. Trong 1 năm đi vào hoạt động, chỉ riêng các giảng viên của ngành kỹ thuật hạ tầng đã công bố khoảng 20 bài báo quốc tế ISI có tên của Đại học Việt Nhật. Trong số các học viên của chương trình, cũng đã có em có kết  quả nghiên cứu tốt, được báo cáo tại hội nghị khoa học quốc tế.  Các PTN về kỹ thuật hạ tầng, Công nghệ nano và Kỹ thuật môi trường được Nhà nước đầu tư cũng chuẩn bị đi vào hoạt động vào cuối năm 2017. Bên cạnh đó, trường còn có chính sách học bổng rất tốt: 100% học viên khóa 1 được cấp học bổng của JICA hoặc của các doanh nghiệp Nhật Bản. Các em tốt nghiệp chương trình thành thạo cả tiếng Anh và tiếng Nhật.

Có thể đánh giá đây là ngôi trường đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam, được Chính phủ và nhân dân 2 nước gửi gắm niềm tin và hy vọng. Với sự quan tâm của Chính phủ 2 nước, sự nhiệt tình và tâm huyết của các giảng viên Nhật Bản và Việt Nam, chất lượng của đội ngũ học viên và các điều kiện tốt đảm bảo cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu, chắc chắn Trường Đại học Việt Nhật, trong đó có ngành Kỹ thuật hạ tầng, ngày càng phát triển nhanh và mạnh, xứng đáng là địa chỉ tin cậy đào tạo chất lượng cao, trình độ cao, chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam, là biểu tượng sâu sắc của tình hữu nghị và hợp tác chiến lược của hai nước Việt Nam và Nhật Bản.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Chương trình Kỹ thuật hạ tầng, Đại học Việt Nhật, 02.7.2017 

windows 8.1 enterprise kaufen

SEMINAR GIỚI THIỆU CÁC CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT HẠ TẦNG MỚI NHẤT CỦA NHẬT BẢN NGÀY 20/6/2017 TẠI ĐH VIỆT NHẬT

VP Chương trình Kỹ thuật hạ tầng ĐH Việt Nhật thông báo về Seminar giới công nghệ mới trong xây dựng – giao thông của Nhật Bản tại Trường Đại học Việt Nhật, khai mạc 13g30 ngày 20.6.2017 tại ĐH Việt Nhật. Trân trọng thông báo và kính mời các quý thầy/cô, các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các bạn học viên, NCS quan tâm dự. Nội dung , chương trình như sau:

Academic Seminar for
Infrastructure Engineering Program, Vietnam Japan University

1. Objective
 To introduce advanced technologies by Japanese enterprises to Vietnamese engineers and students
 To exchange information on academic research results among researchers/students and engineers.
2. Target
 Students of MIE
 Lecturers/Researchers in VJU and other universities (NUCE, UTC, Water resource Uni. Architect Uni. etc.)
 Japanese enterprises in the field of infrastructure engineering (Total 50-100 persons)
3. Time and venue
 Time: 13:30 – 17:00, Jun. 20th (Tue.)
 Venue: room 415 – 416, My Dinh Campus of VJU (Luu Huu Phuoc Street,
My Dinh 1, Hanoi)
4. Agenda: Chairs – Professor Nguyen Dinh Duc and Professor Hironori Kato
13:15 – 13:30 Registration
13:30 – 13:40 Opening speech by Professor Nguyen Dinh Duc
13:40 – 14:10
(Q&A: 10 mins) First application of shield tunneling technology for construction of urban railway in Vietnam
– Dr. Phan Huu Duy Quoc, Shimizu Construction
14:10 – 14:40
(Q&A: 10 mins) Introduction of KTB Pre-stressed Concrete Technology
– Mr. Thang Anh Quang, KTB Co., Ltd
14:40 – 15:10
(Q&A: 10 mins) Application of Steel Structure to Infrastructures in Vietnam and Japan
– Mr. Nguyen Ngoc Tuan, JFE Steel Vietnam Co., Ltd.
15:10 – 15:40
(Q&A: 10 mins) To be determined
– To be determined
15:40 – 16:20 Break – exchange of name card
16:20 – 16:50
(Q&A: 10 mins) The buckling behavior of multi-cracked FGM Plates
– Mr. Trinh Duc Truong, Master course student, Vietnam Japan University
16:50 – 17:00 Closing speech by Professor Hironori Kato
17:00 – 18:30 Buffet dinner

Contact: Mr. Dzung, VJU
Email: nnd2707@gmail.com
Tel: +84 904 1234 08

Xin vui lòng đăng ký tham dự đến địa chỉ sau: Mr. Dzung, Email: nnd2707@gmail.com, Tel: +84 904 1234 08.

Google translate translate between 103 languages the response by typing.

windows 7 ultimate kaufen