Giải thưởng Tài năng cơ học trẻ mang tên Nguyễn Văn Đạo năm 2016

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, hiện đang là nghiên cứu sinh trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Quân vừa vinh dự nhận giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo.

Chàng trai quê nghèo tới giải thưởng Nguyễn Văn Đạo

Giải thưởng mang tên GS.VS Nguyễn Văn Đạo, nhà Cơ học lỗi lạc của Việt Nam trong lĩnh vực Cơ học. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Cơ học Việt Nam và cũng là Giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN.

Sau khi ông mất, Hội Cơ học Việt Nam đã thành lập quỹ Nguyễn Văn Đạo để tặng thưởng cho những nhà cơ học trẻ tài năng, có đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và đã trở thành giải thưởng có uy tín và danh giá nhất của ngành Cơ học hiện nay. Giải thưởng Nguyễn Văn Đạo lần thứ nhất được trao cho TS. Nguyễn Xuân Hùng (Giảng viên ĐH KHTN – ĐHQG TPCM) năm 2011, và lần thứ 2, được trao cho TS Lê Đình Tuân (giảng viên ĐH Bách khoa TP HCM), năm 2014.

Giải thưởng lần này, Hội Cơ học Việt Nam vừa quyết định trao giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo lần thứ 3, năm 2016 cho Trần Quốc Quân – nghiên cứu sinh của Phòng Thí Nghiệm Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến, Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa – Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN vì những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học.

anh-hoi-nghi-2

Trần Quốc Quân (ngoài cùng bên trái) cùng với thầy giáo và các bạn của mình

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, tại gia đình nghèo tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Thủ khoa Cơ học Kỹ thuật của Đại học Công nghệ, ĐHQGHN năm 2013.

Ngay từ khi học ở năm thứ 2 ở trường Đại học Công nghệ, Trần Quốc Quân đã bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức. Sau khi tốt nghiệp đại học bậc kỹ sư , Quân được chuyển tiếp làm NCS. Những công trình nghiên cứu của NCS Trần Quốc Quân liên quan đến vật liệu composite chức năng FGM và nano composite. Những đóng góp chủ yếu của các công trình này bao gồm những kết quả chính như sau:

Thứ nhất, các công trình này đã giải quyết thành công bài toán nghiên cứu ổn định tĩnh và đáp ứng động lực học của vỏ composite FGM hai độ cong trên nền đàn hồi chịu các tải cơ, nhiệt và cơ – nhiệt đồng thời. Các tính chất hiệu dụng của các kết cấu được giả sử biến đổi qua chiều dày thành vỏ theo hàm luật luỹ thừa với các lớp khác nhau (kim loại-gốm, kim loại-gốm-kim loại hoặc gốm-kim loại-gốm).

Các tính chất vật liệu thành phần của vật liệu được xét trong cả hai trường hợp độc lập với nhiệt độ và phụ thuộc vào nhiệt độ và đã sử dụng cả lý thuyết vỏ cổ điển cũng như lý thuyết vỏ có biến dạng trượt bậc cao (đến bậc 3).

Thứ hai, giải quyết thành công bài toán vỏ hai độ cong được gia cường bằng các gân dọc và ngang dưới tác động của nhiệt độ. Đây là bài toán phức tạp, vì dưới tác động của nhiệt độ, cả vỏ và gân đều bị biến dạng.

Đồng thời đã nghiên cứu ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường và nền đàn hồi đến ổn định tĩnh và động phi tuyến của vỏ FGM hai độ cong. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây cũng là những công bố sớm đầu tiên về ổn định của vỏ FGM có gân dưới tác động của nhiệt độ.

Thứ ba, đã nghiên cứu ổn định phi tuyến của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện chịu tải trọng điện (piezoelectric FGM): Xác định lực tới hạn, đường cong lực-độ võng, tần số tự nhiên, đáp ứng động học của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện.

Ở kết quả số, ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính chất vật liệu, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường, nền đàn hồi và tải điện đến ổn định phi tuyến của vỏ FGM áp điện được xác định.

Liên quan đến piezoelectric FGM là các bài toán mới và hiện đại trong lĩnh vực cơ học hiện nay và theo như hiểu biết của chúng tôi có thể đây là công bố đầu tiên về ổn định của vỏ FGM áp điện của các nhà khoa học ở Việt Nam.

Cuối cùng, nghiên cứu tính toán ổn định phi tuyến của nanocomposite polyme 3 pha. Vật liệu composite 3 pha được nghiên cứu là composite bao gồm pha nền polyme (polyester, vinylester, epoxy), sợi (thủy tinh, cacbon) và bổ sung thêm pha thứ ba là các hạt gia cường (là các hạt titan oxit) với các phương án chọn tỷ lệ trộn nền, sợi và hạt khác nhau.

Sử dụng các kết quả tính toán các mô đun đàn hồi cũng như hệ số giãn nở nhiệt cho composite polyme 3 pha của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, các công trình đã tính toán ổn định tĩnh và động cho các kết cấu tấm, panel và chỉ ra mối quan hệ ứng xử của vật liệu và kết cấu phụ thuộc vào tính chất và tỷ lệ trộn của các vật liệu thành phần, điều này cho phép có thể dự đoán được khả năng chịu tải của vật liệu và kết cấu, cũng như có thể chủ động thiết kế chế tạo vật liệu mới đáp ứng các điều kiện khai thác mong muốn.

Vươn tầm quốc tế

Trưởng thành trong nhóm nghiên cứu mạnh của Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến – thực hiện gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, dưới sự lãnh đạo khoa học của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, chỉ riêng NCS Trần Quốc Quân đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Đây là những kết quả nghiên cứu xuất sắc với NCS tuổi đời còn rất trẻ và đào tạo 100% tại Việt Nam.

Trần Quốc Quân với thầy giáo, GS Nguyễn Đình Đức

Ngoài ra, bài toán ổn định phi tuyến và đáp ứng động lực học là những vấn đề được quan tâm và có ý nghĩa quan trong, thiết thực trong lĩnh vực cơ học kết cấu. Các kết quả nhận được trong phân tích ổn định của các kết cấu làm từ vật liệu có cơ tính biến đổi sẽ cung cấp các thông tin quan trọng trong việc thiết kế, đảm bảo cho kết cấu hợp lý khi chế tạo và an toàn khi khai thác sử dụng.

Hơn nữa các kết quả nhận được là dưới dạng giải tích (dạng hiển), do đó nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho các nhà thiết kế, chế tạo kết cấu FGM, xây dựng các công trình sử dụng vật liệu FGM, giúp cho các nhà thiết kế, chế tạo, xây dựng,…có thể lựa chọn phù hợp, chính xác sự phân bố vật liệu thành phần trong FGM cũng như các tham số của kết cấu và nền để vừa phát huy được khả năng chịu tải, khả năng kháng nhiệt ưu việt của vật liệu trong môi trường nhiệt độ cao, lại vừa hạn chế được khả năng rạn nứt hoặc phá huỷ của kết cấu có thể xảy ra khi chịu tải cơ lớn, cũng như lựa chọn vật liệu nền hợp lý.

Thành công của Trần Quốc Quân góp phần khẳng định sự lớn mạnh và hội nhập quốc tế của ngành Cơ học Việt Nam và chất lượng đào tạo tiến sỹ theo các chuẩn mực quốc tế tại ĐHQGHN.

Theo Dân trí

Create pay people to write essay and print customized word search, criss-cross, math puzzles, and more-using your own word lists.

GIẢI THƯỞNG TÀI NĂNG CƠ HỌC TRẺ MANG TÊN NGUYỄN VĂN ĐẠO NĂM 2016

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, hiện đang là nghiên cứu sinh trường ĐH Công nghệ – ĐHQGHN đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Quân vừa vinh dự nhận giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo.

Chàng trai quê nghèo tới giải thưởng Nguyễn Văn Đạo

Giải thưởng mang tên GS.VS Nguyễn Văn Đạo, nhà Cơ học lỗi lạc của Việt Nam trong lĩnh vực Cơ học. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội Cơ học Việt Nam và cũng là Giám đốc đầu tiên của ĐHQGHN.

Sau khi ông mất, Hội Cơ học Việt Nam đã thành lập quỹ Nguyễn Văn Đạo để tặng thưởng cho những nhà cơ học trẻ tài năng, có đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và đã trở thành giải thưởng có uy tín và danh giá nhất của ngành Cơ học hiện nay. Giải thưởng Nguyễn Văn Đạo lần thứ nhất được trao cho TS. Nguyễn Xuân Hùng (Giảng viên ĐH KHTN – ĐHQG TPCM) năm 2011, và lần thứ 2, được trao cho TS Lê Đình Tuân (giảng viên ĐH Bách khoa TP HCM), năm 2014.

Giải thưởng lần này, Hội Cơ học Việt Nam vừa quyết định trao giải thưởng tài năng Cơ học Nguyễn Văn Đạo lần thứ 3, năm 2016 cho Trần Quốc Quân – nghiên cứu sinh của Phòng Thí Nghiệm Vật liệu và Kết cấu Tiên tiến, Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa – Trường Đại học Công nghệ – ĐHQGHN vì những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học.

anh hoi nghi 2

Trần Quốc Quân (ngoài cùng bên trái) cùng với thầy giáo và các bạn của mình

Trần Quốc Quân sinh năm 1991, tại gia đình nghèo tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Thủ khoa Cơ học Kỹ thuật của Đại học Công nghệ, ĐHQGHN năm 2013.

Ngay từ khi học ở năm thứ 2 ở trường Đại học Công nghệ, Trần Quốc Quân đã bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức. Sau khi tốt nghiệp đại học bậc kỹ sư , Quân được chuyển tiếp làm NCS. Những công trình nghiên cứu của NCS Trần Quốc Quân liên quan đến vật liệu composite chức năng FGM và nano composite. Những đóng góp chủ yếu của các công trình này bao gồm những kết quả chính như sau:

Thứ nhất, các công trình này đã giải quyết thành công bài toán nghiên cứu ổn định tĩnh và đáp ứng động lực học của vỏ composite FGM hai độ cong trên nền đàn hồi chịu các tải cơ, nhiệt và cơ – nhiệt đồng thời. Các tính chất hiệu dụng của các kết cấu được giả sử biến đổi qua chiều dày thành vỏ theo hàm luật luỹ thừa với các lớp khác nhau (kim loại-gốm, kim loại-gốm-kim loại hoặc gốm-kim loại-gốm).

Các tính chất vật liệu thành phần của vật liệu được xét trong cả hai trường hợp độc lập với nhiệt độ và phụ thuộc vào nhiệt độ và đã sử dụng cả lý thuyết vỏ cổ điển cũng như lý thuyết vỏ có biến dạng trượt bậc cao (đến bậc 3).

Thứ hai, giải quyết thành công bài toán vỏ hai độ cong được gia cường bằng các gân dọc và ngang dưới tác động của nhiệt độ. Đây là bài toán phức tạp, vì dưới tác động của nhiệt độ, cả vỏ và gân đều bị biến dạng.

Đồng thời đã nghiên cứu ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường và nền đàn hồi đến ổn định tĩnh và động phi tuyến của vỏ FGM hai độ cong. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây cũng là những công bố sớm đầu tiên về ổn định của vỏ FGM có gân dưới tác động của nhiệt độ.

Thứ ba, đã nghiên cứu ổn định phi tuyến của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện chịu tải trọng điện (piezoelectric FGM): Xác định lực tới hạn, đường cong lực-độ võng, tần số tự nhiên, đáp ứng động học của các kết cấu vỏ hai độ cong FGM áp điện.

Ở kết quả số, ảnh hưởng của các kích thước hình học, tính chất vật liệu, tính không hoàn hảo về hình dáng ban đầu, gân gia cường, nền đàn hồi và tải điện đến ổn định phi tuyến của vỏ FGM áp điện được xác định.

Liên quan đến piezoelectric FGM là các bài toán mới và hiện đại trong lĩnh vực cơ học hiện nay và theo như hiểu biết của chúng tôi có thể đây là công bố đầu tiên về ổn định của vỏ FGM áp điện của các nhà khoa học ở Việt Nam.

Cuối cùng, nghiên cứu tính toán ổn định phi tuyến của nanocomposite polyme 3 pha. Vật liệu composite 3 pha được nghiên cứu là composite bao gồm pha nền polyme (polyester, vinylester, epoxy), sợi (thủy tinh, cacbon) và bổ sung thêm pha thứ ba là các hạt gia cường (là các hạt titan oxit) với các phương án chọn tỷ lệ trộn nền, sợi và hạt khác nhau.

Sử dụng các kết quả tính toán các mô đun đàn hồi cũng như hệ số giãn nở nhiệt cho composite polyme 3 pha của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức, các công trình đã tính toán ổn định tĩnh và động cho các kết cấu tấm, panel và chỉ ra mối quan hệ ứng xử của vật liệu và kết cấu phụ thuộc vào tính chất và tỷ lệ trộn của các vật liệu thành phần, điều này cho phép có thể dự đoán được khả năng chịu tải của vật liệu và kết cấu, cũng như có thể chủ động thiết kế chế tạo vật liệu mới đáp ứng các điều kiện khai thác mong muốn.

Vươn tầm quốc tế

Trưởng thành trong nhóm nghiên cứu mạnh của Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến – thực hiện gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, dưới sự lãnh đạo khoa học của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, chỉ riêng NCS Trần Quốc Quân đã công bố 21 bài báo và báo cáo khoa học, với 14 bài báo trên tạp chí quốc tế ISI, trong đó có 8 bài ISI với chỉ số IF lớn hơn 2 (với 3 bài có chỉ số IF lớn hơn 3.8). Đây là những kết quả nghiên cứu xuất sắc với NCS tuổi đời còn rất trẻ và đào tạo 100% tại Việt Nam.

Trần Quốc Quân với thầy giáo, GS Nguyễn Đình Đức

Ngoài ra, bài toán ổn định phi tuyến và đáp ứng động lực học là những vấn đề được quan tâm và có ý nghĩa quan trong, thiết thực trong lĩnh vực cơ học kết cấu. Các kết quả nhận được trong phân tích ổn định của các kết cấu làm từ vật liệu có cơ tính biến đổi sẽ cung cấp các thông tin quan trọng trong việc thiết kế, đảm bảo cho kết cấu hợp lý khi chế tạo và an toàn khi khai thác sử dụng.

Hơn nữa các kết quả nhận được là dưới dạng giải tích (dạng hiển), do đó nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho các nhà thiết kế, chế tạo kết cấu FGM, xây dựng các công trình sử dụng vật liệu FGM, giúp cho các nhà thiết kế, chế tạo, xây dựng,…có thể lựa chọn phù hợp, chính xác sự phân bố vật liệu thành phần trong FGM cũng như các tham số của kết cấu và nền để vừa phát huy được khả năng chịu tải, khả năng kháng nhiệt ưu việt của vật liệu trong môi trường nhiệt độ cao, lại vừa hạn chế được khả năng rạn nứt hoặc phá huỷ của kết cấu có thể xảy ra khi chịu tải cơ lớn, cũng như lựa chọn vật liệu nền hợp lý.

Thành công của Trần Quốc Quân góp phần khẳng định sự lớn mạnh và hội nhập quốc tế của ngành Cơ học Việt Nam và chất lượng đào tạo tiến sỹ theo các chuẩn mực quốc tế tại ĐHQGHN.

Theo Dân trí

Students, teachers and rockstars alike all come here to create and learn.

GS NGUYEN DINH DUC được mời tham gia Ban biên tập của tạp chí quốc tế ISI

GS Nguyễn Đình Đức vinh dự được mời mời tham gia vào Ban biên tập quốc tế của tạp chí quốc tế ISI : Journal of Science and Engineering of Composite Materials (NXB De GRUYTER, IF=0.515): http://www.degruyter.com/view/j/secm.
Đồng thời, GS Nguyễn Đình Đức cũng được mới là Guest Editor của chuyên san “Advances in hybrid composite materials and structures” (Nhà xuất bản SAGE) của Tạp chí ISI Advances in Mechanical Engineering, NXB SAGE, IF=0.55): http://ade.sagepub.com/site/callforpapers/advances-hybrid-composite-materials-structures.xhtml
Như vậy, uy tín của nhóm nghiên cứu ngày càng vươn xa ra cộng đồng khoa học quốc tế.

Dabei erfolgt eine stetige vernetzung zu themen der gesundheitspsychologie Lesen Sie den Artikel und der gesundheitssoziologie sowie zur didaktik der gesundheitsfrderung.

THÔNG BÁO VỀ HỘI NGHỊ QUỐC TẾ ICEMA4-2016

The 4th International Conference on Engineering Mechanics and Automation (ICEMA-4) will be organised at University of Engineering and Technology on August 25÷26, 2016.

The aim of the conference is to provide an international forum on technologies and applications of Engineering Mechanics and Automation for scientific researchers. This is also a good chance for experiences exchange and international collaboration in these fields. The scope of the conference includes, but not limited to, the following topics:

  • Fundamental Issues of Fluid Mechanics
  • Mechanics with Climate Change and Environment
  • Industrial and Environmental Fluid Mechanics
  • River and Sea Dynamics
  • Fundamental Issues of Mechanics of Solids
  • Mechanics of Composite Materials and Structures.
  • Fracture Mechanics and Fatigue
  • Mechanics of Soil, Rocks and Porous Medium
  • Technical Diagnostics
  • Linear and Nonlinear Oscillations
  • Dynamics of Multi-body Systems
  • Nonlinear Dynamics and Chaos
  • Mechanics of Machines and Mechanism
  • Computational Mechanics
  • Industrial Automation
  • CAD/CAM/CNC Systems
  • Control Strategies and Algorithms
  • Design Automation
  • Intelligent Systems
  • Machine Tools and Machinery
  • Manufacturing Process Control
  • Mechatronics Engineering
  • Rapid Prototyping

DEADLINES
Registration:                                                       May              15     2016
Abstract submission:                                           May              30     2016
Notification of Acceptance                                  June             15     2016
Full paper submission:                                        July              15     2016

PUBLICATIONS: The oral papers which are considered and decided by the Programme and Publication Committee will be published in the conference proceedings with ISBN index.

THE OFFICIAL LANGUAGE: English.

REGISTRATION FEE: 600.000 VND/person.
The fees include: registration, daily tea/coffee, lunch.
Publication fee: 300.000 VND/paper and 300.000 VND for each extra proceeding.

ABSTRACT:
Abstract does not exceed 200 words. Microsoft Word documents using Unicode font. The title using Times New Roman font 14 bold is in the centre. The Author’s name using font Times New Roman 11 bold, in the centre (without the title). The workplace uses Times New Roman font 11 italics root left, immediately after the author’s name. Write the names of the authors and the workplace of each group below.

FULL PAPER:
Full paper does not exceed 8 pages. The guide presenting the full paper is attached to this message.

Contact details

Phan Thi Cam Ly , University of Engineering and Technology, VNU
E3 building, 144 Xuan Thuy Road, Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam.
Email: camlypt@vnu.edu.vn
Tel.: (84.4) 37549431
Fax: (84.4) 37547460
Dao Nhu Mai, Institute of Mechanics, 264 Doi Can Str., Ba Dinh Dist. Hanoi, Vietnam
Email: dnmai@imech.ac.vn
Tel.: (84.4) 38326140

For more infomation, visit websitehttp://icema4.fema.uet.vnu.edu.vn/

Using gps and qr blog codes, aris players experience a hybrid world of virtual interactive characters, items, and media placed in physical space.

SÁNG CHẾ VẬT LIỆU COMPOSITE SỢI THỦY TINH HẠT NANO TITAN OXIT

Sau nhiều năm nghiên cứu về vật liệu tiên tiến và qua nhiều vòng thẩm định của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, sản phẩm “Vật liệu polymer compozit sợi thủy tinh” do GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến của Khoa Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN) đã được cấp bằng sáng chế.
Vật liệu mới áp dụng trong công nghiệp đóng tàu
Hơn 30 năm kể từ những ngày đầu bước chân vào nghiên cứu khoa học cho đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã chọn cho mình hướng đi bền bỉ và gắn trọn vẹn với nghiên cứu về vật liệu compozite. Những năm làm tiến sỹ và tiến sỹ khoa học ở Nga, Giáo sư đã bắt đầu nghiên cứu về vật liệu compozite ba pha cácbon- cácbon siêu bền nhiệt, siêu nhẹ được ứng dụng cho tên lửa, hàng không vũ trụ. Khi về nước, ngay từ 2002, GS. Nguyễn Đình Đức đã nhanh chóng sử dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại và kết quả nghiên cứu  ở Nga để áp dụng cho lớp vật liệu polymer được ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Khởi đầu là những nghiên cứu tính toán lý thuyết, sau đó là các nghiên cứu thực nghiệm, và trong thời gian 2009-2011, giáo sư đã phối hợp nghiên cứu về khả năng ứng dụng các hạt nano titan oxit trong đề tài Nghị định thư nghiên cứu về vật liệu OLED phát quang do GS. TS. Nguyễn Năng Định làm Chủ nhiệm (Khoa Vật lý Kỹ thuật và Công nghệ nano).

 

GS. TSKH Nguyễn Đình Đức – Trưởng phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến
Khoa Cơ học kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN)

 

GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức đã chia sẻ: ý tưởng của sáng chế này nảy sinh từ thực tiễn. Những năm vừa qua, tại Việt Nam, công nghiệp đóng tàu vừa và nhỏ bằng compozite phát triển rất mạnh mẽ, nhưng phần đà máy (bể chứa máy) của tàu thủy hay bị thấm nước, nên việc chống thấm rất quan trọng. Từ đó, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy (Trường Đại học Nha Trang) đã đặt vấn đề với giáo sư về việc xử lý chống thấm cho vật liệu này. Điều may mắn là, nhóm nghiên cứu do GS Nguyễn Đình Đức là trưởng nhóm có thế mạnh về nghiên cứu compozite ba pha (có sợi và hạt) và có cơ sở khoa học cho thấy các sợi có khả năng tăng độ bền, độ cứng và tăng các mô đun đàn hồi của vật liệu; còn các hạt khoáng có tác dụng làm giảm các vết nứt, giúp vật liệu polymer tăng khả năng chịu nhiệt, làm giảm biến dạng không đàn hồi, tăng độ bền khi chịu nén của vật liệu,…Từ những nghiên cứu cơ bản đó, Giáo sư đã đưa ra ý tưởng bổ sung một tỷ lệ hợp lý các hạt nano titan đi-ô-xit với kích thước rất nhỏ để trám lỗ rỗng trong vật liệu polymer, làm tăng cường khả năng liên kết giữa nền polymer với sợi. Từ đó làm tăng độ bền và khả năng chống thấm của vật liệu.
Ngay sau khi GS Nguyễn Đình Đức đưa ra giải pháp như vậy, Viện nghiên cứu chế tạo tàu thủy (Trường Đại học Nha Trang) đã ủng hộ mạnh mẽ và hợp tác, hỗ trợ nghiên cứu, chế tạo mẫu và thử nghiệm. Viện nghiên cứu đã chế tạo mẫu theo công nghệ và tỷ lệ vật liệu polymer, sợi và hạt theo tính toán của Giáo sư. Viện đã trực tiếp làm thực nghiệm để kiểm chứng tính chất cơ lý của vật liệu và đồng thời, Giáo sư cũng đã đem mẫu đó kiểm tra, soi chụp tại Phòng thí nghiệm Micro-nano (của Trường Đại học Công nghệ) để chụp và soi cấu trúc. Các kết quả thực nghiệm và kiểm tra cấu trúc (như ở hình 1 và hình 2) cho thấy kết quả rất khả quan: Quả thực các hạt nano đã trám, lấp được những lỗ trống trong polymer và nhờ vậy không chỉ góp phần làm tăng các mô đun đàn hồi, tăng mô men uốn (là thông số quan trọng trong kỹ thuật tàu thủy) mà quả thực có thể tăng khả năng chống thấm cho compozite. Sau khi có kết quả nghiên cứu và thử nghiệm một cách tin cậy và chắc chắn như vậy, tháng 8-2012, Viện nghiên cứu và chế tạo tàu thủy ĐH Nha Trang đã cùng giáo sư thi công, áp dụng vào thực tiễn, chế tạo đà máy trong quá trình đóng tàu bằng compozite tại Viện thành công, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết.

 

Ảnh 1. Vật liệu compozite 2 pha nền polyester sợi thủy tinh thông thường
Ảnh 2. Vật liệu compozite 3 pha nền polyester sợi thủy tinh sau khi bổ sung hạt nano titan oxit

 

Khi nói đến tính ưu việt của vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh, GS. TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định, vật liệu này có đặc tính cơ học cao, có khả năng trơ trong môi trường kiềm và axit, lại nhẹ hơn sắt thép, vì vậy là vật liệu phi kim loại dùng thay thế sắt thép trong các công trình biển và hải đảo, đường ống dẫn truyền hóa chất, đóng tàu,…Hiện nay, ở Việt Nam, vật liệu compozite polymer sợi thủy tinh được ứng dụng nhiều trong công nghiệp đóng tàu (cỡ nhỏ, cỡ trung) làm tàu của ngư dân, tàu và ca-nô tuần tra biển (cảnh sát biển, kiểm ngư,…).
Cuối năm 2012, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã đăng ký sáng chế ở Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam và đến tháng 3/2013, đã có quyết định công nhận hồ sơ hợp lệ. Trải qua 3 năm nỗ lực cùng sự phối hợp của nhóm nghiên cứu, được sự hỗ trợ mạnh mẽ Khoa và của Phòng quản lý khoa học (Trường Đại học Công nghệ), đầu năm 2016, sản phẩm vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh hạt nano titan oxit đã được Cục sở hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế. Đây là một thành công bước đầu của nhóm nghiên cứu để phát triển những vật liệu mới tiếp theo trong thời gian tới. Khi nhắc đến dự định trong tương lai, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, nhóm sẽ phát triển compozite trong một số lĩnh vực khác liên quan đến vật liệu và kết cấu tiên tiến, như vật liệu compozite chức năng FGM và nano FGM, bê tông chịu mặn cường độ cao, vật liệu mới auxetic (với hệ số Poát xông âm) để chống chịu các điều kiện khắc nghiệt, thích ứng với biến đổi khí hậu và chịu các tải trọng đặc biệt.
Nghiên cứu khoa học cơ bản ứng dụng gắn kết chặt chẽ với công bố quốc tế
Trong những năm nghiên cứu vật liệu mới compozite, điều mà GS.TSKH Nguyễn Đình Đức tâm đắc nhất là không chỉ nghiên cứu ứng dụng, mà qua hoạt động nghiên cứu đã công bố được nhiều bài quốc tế và gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo. Giáo sư chia sẻ, trước kia không ít nhà khoa học quan niệm nghiên cứu khoa học cơ bản thì khó có ứng dụng hoặc nghiên cứu ứng dụng rất khó công bố quốc tế. Nhưng với sáng chế vật liệu polymer compozite sợi thủy tinh đã chứng minh giữa khoa học cơ bản ứng dụng và công bố quốc tế có gắn kết chặt chẽ, tiếp cận được với chuẩn mực và trình độ của thế giới. Những kết quả nghiên cứu về composite polymer 3 pha sợi thủy tinh hạt nano titan oxit đã được công bố trên những tạp chí quốc tế có IF (chỉ số ảnh hưởng) cao.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, bằng sự tâm huyết và yêu nghề, Giáo sư Nguyễn Đình Đức đã đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhóm nghiên cứu mạnh về composite được biết đến ở trong và ngoài nước. Các nghiên cứu sinh trong nhóm nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Đức đều là các em xuất sắc, có nhiều bài báo công bố trên các tạp chí có uy tín của nước ngoài, không thua kém gì với các nghiên cứu sinh được đào tạo ở các trường đại học hàng đầu trên thế giới. Theo đề xuất của giáo sư, năm 2015, Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ đã ký quyết định thành lập Phòng thí nghiệm vật liệu Vật liệu và Kết cấu tiến tiến, hoạt động theo mô hình Phòng thí nghiệm vừa nghiên cứu vừa đào tạo, và giáo sư Nguyễn Đình Đức được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng thí nghiệm.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cùng các sinh viên tại hội nghị ICCE 23
Để đạt được những thành công như hiện nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức một lần nữa khẳng định, nhà khoa học cần phải đồng hành với doanh nghiệp vì kinh phí đề tài chỉ hỗ trợ phần nghiên cứu cơ bản, phần thử nghiệm phải được thực hiện theo nhu cầu của thực tiễn, qua đơn đặt hàng từ thực tiễn và có sự hỗ trợ của doanh nghiệp và người sử dụng. Từ đó, mô hình kết hợp có hiệu quả nhất để những sản phẩm khoa học công nghệ đạt được thành công, đi vào cuộc sống là phải có sự kết hợp chặt chẽ 4 nhà: Nhà trường – Nhà khoa học- Doanh nghiệp- Nhà nước. Có thể thấy đây là mô hình của trung tâm nghiên cứu xuất sắc: vừa giải quyết vấn đề thực tiễn, vừa có thể tiến hành nghiên cứu và đào tạo đạt chuẩn quốc tế.

Construct 2 does the hard https://midnightpapers.com work so you don’t have to.

BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NĂM 2015 CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU

Trưởng nhóm: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

Năm 2015 đã khép lại và năm mới 2016 đã bắt đầu, nhìn lại chặng đường 1 năm của Nhóm nghiên cứu về vật liệu và kết cấu composite – Đại học Quốc gia Hà Nội (NNC), chúng ta có thể thấy trong năm qua NNC đã nỗ lực vượt bậc và thu được nhiều kết quả tốt đẹp:

Continue reading

Tin vui: Đề án hợp tác với University of Birmingham – UK được Newton Fund – UK thông qua tài trợ

Ngày 15/12/2015, chúng tôi vừa nhận được thông báo chính thức của bên UK, đề tài về vật liệu chức năng FGM và nanocomposite do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến – Khoa Cơ kỹ thuật và Tự động hóa – ĐHCN, ĐHQGHN đề xuất hợp tác với School of Mechanical Engineering, University of Birmingham UK (xếp hạng thứ 27 thế giới trong bảng xếp hạng QS -2015) đã được Quỹ Newton Fund chính thức thông qua tài trợ.

Đề án hợp tác sẽ được triển khai từ tháng 3.2016 đến 2.2017, Total project cost: £120,000.00 dành cho các nhà khoa học của 2 bên đi lại, trao đổi nghiên cứu.

Newton Fund của UK thuộc Viện Công nghệ Hoàng gia Anh (The Royal Academy of Engineering), được thành lập để tài trợ cho các nghiên cứu có tầm quốc tế, có giá trị khoa học kỹ thuật cao. Dự án không chỉ mang tính chất hợp tác KHCN giữa hai trường đại học đẳng cấp quốc gia giữa hai nước, mà còn mang tính chất thúc đẩy quan hệ hợp tác về KHKT giữa Việt Nam và UK.  Chính phủ UK rất quan tâm hợp tác với Việt Nam về KHCN và Newton Fund là tổ chức thuộc The Royal Academy of Engineering nhằm mục đích tìm kiếm và  kết nối các nhà khoa học xuất sắc của hai nước với nhau. Đề tài này được thông qua vừa có ý nghĩa về KHCN, vừa có ý nghĩa thúc đẩy các hợp tác KHCN xuất sắc giữa Việt Nam và UK. Bản thân việc apply đề tài và đã được Viện Công nghệ Hoàng gia Anh phê duyệt thông qua là cực kỳ khó và là thành công lớn, vì Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh tuyển chọn rất kỹ lưỡng, rất khắt khe, bình đẳng với rất nhiều hồ sơ từ khắp nơi trên thế giới trước khi đưa ra quyết định tài trợ. Dự án cho thấy ĐHCN – ĐHQGHN có thể tham gia thực hiện các dự án hợp tác KHCN đỉnh cao với UK và với các đối tác nước ngoài.

Chính vì vậy, mặc dù kinh phí không quá lớn,  nhưng đó là sự ghi nhận của một cơ quan khoa học hàng đầu thế giới về trình độ và thành tích của Nhóm nghiên cứu và PTN. Tầm và quan hệ quốc tế sẽ sang một đẳng cấp khác. Xin cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ của các thầy lãnh đạo Khoa và Nhà trường.

Dù mới thành lập, PTN Vật liệu và Kết cấu tiến tiến do GS Nguyễn Đình Đức sáng lập và  dẫn dắt đã có một số kết quả hợp tác quan trọng khác:

– Ngày 1. Nov 2015, Hiệu trưởng ĐHCN PGS.TS Nguyễn Việt Hà và GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã ký Văn bản hợp tác với nhóm của GS Priyan Mandis (chuyên gia hàng đầu thế giới về kết cấu các công trình chịu tải trọng nổ) của University of Melbourne – Australia (xếp hạng thứ 5 thế giới trong bảng xếp hạng QS-2015). Hiện nay 2 bên đã có những kết quả công bố chung và bên đối tác tài trợ cho NNC tham gia một số các hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước, và có thể nhận thực tập sinh.

– ĐH Tokyo: Hiện nay GS NĐ Đức -Trưởng PTN đang triển khai chương trình thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng, sẽ lựa chọn một số sinh viên ưu tú để xin học bổng cho các em học tiếp bậc thạc sỹ theo chương trình này tại ĐH Việt Nhật, bắt đầu tuyển sinh từ 3.2016.

– Với Hàn Quốc: GS NĐ Đức – Trưởng PTN đã có truyền thống hợp tác với Khoa hàng không vũ trụ của KAIST từ 2006 và đã cử một số sinh viên sang trao đổi và học sau đại học tại KAIST. Nhân dịp hội nghị về dao động quốc tế APVC14-tháng 11.2015 vừa qua được tổ chức tại ĐHBKHN, các GS Nhật Bản và Hàn Quốc đã đến thăm PTN và trao đổi với GS N.Đ.Đức về khả năng hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu. Hoạt động và kết quả nghiên cứu của NNC và PTN đã được các giáo sư nước ngoài đánh giá rất cao. Ngay sau hội nghị, công việc hợp tác đã được triển khai tích cực, và đầu tháng 1.2016 tới, PTN sẽ đón tiếp GS Lee, Dean of School of Mechanical Engineering của Hàn Quốc sang chính thức trao đổi và đặt vấn đề hợp tác với PTN lâu dài về đào tạo và NCKH.

Một lần nữa, xin chúc mừng GS Nguyễn Đình Đức, chúc mừng Nhóm nghiên cứu và PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến.

The games you make can be played https://essayclick.net/ online from anywhere in the world.

CÔNG BỐ 6 CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SỸ ĐẦU TIÊN CỦA TRƯỜNG ĐH VIỆT NHẬT

12342502_426383507554534_3292685845601304765_n

Ngày 12-12 tại Hội trường Nguyễn Văn Đạo của ĐHQGHN, đã công bố 6 chương trình thạc sỹ đầu tiên của ĐH Việt Nhật. Tới dự về phía VN có Thứ trưởng Bộ NG, Thứ trưởng Bộ GTVT, Chủ tịch Phòng CN và TM VN, Phó CT Hội HN Việt Nhật, Giám đốc ĐHQGHN và các trường ĐH thành viên, một số doanh nghiệp. Phía Nhật có tham tán Công sứ, Trưởng Đại diện JICA, Chủ tịch Hội HN Nhật Bản – Việt Nam, đại diện các trường đại học Nhật bản đối tác, đại điện các doanh nghiệp Nhật bản tại VN.

Để có được buổi lễ công bố long trọng 6 chương trình đào tạo độc đáo như ngày hôm nay, đó là kết quả của sự nỗ lực và quyết tâm cao của nhóm tập thể các nhà khoa học của ĐHQGHN và của một số trường đại học và cơ quan khoa học khác của Việt Nam (chương trình Kỹ thuật hạ tầng có sự tham gia của các GS, các giảng viên từ ĐH Xây dựng Hà Nội, ĐH Giao Thông, Học Viện Thủy lợi, Viện KHCN Việt Nam,…) và các giáo sư của trường đại học của Nhật Bản, sự ủng hộ và hỗ trợ tài chính tích cực và kịp thời của JICA và của ĐHQGHN, đặc biệt là sự quyết tâm và chỉ đạo sát sao, quan tâm đặc biệt của Giám đốc ĐHQGHN và các đồng chí trong Ban Giám đốc, sự ủng hộ của các bộ ngành, các doanh nghiệp Việt Nam- Nhật Bản; của Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản.
6 chương trình đó là: CN nano; Kỹ thuật môi trường; Kỹ thuật hạ tầng; Khu vực học, Quản trị KD và Chính sách công.

Xin giới thiệu với các bạn chương trình đào tạo thạc sỹ Kỹ thuật hạ tầng hợp tác với ĐH Tokyo- ĐH hàng đầu Nhật bản và là một trong những ĐH hàng đầu thế giới. Riêng trong lĩnh vực Civil Engineering của ĐH Tokyo xếp hạng tốp trên cao nhất, đứng hàng thứ 2-3 của thế giới từ 2010 đến nay, và tập trung vào một số lĩnh vực như:

– Kỹ thuật công trình giao thông, cầu, hầm, công trình ngầm;

– Kỹ thuật và công nghệ vật liệu mới trong xây dựng công trình;

– Duy tu, bảo trì các công trình kỹ thuật hạ tầng;

– Quy hoạch vùng và đô thị;

– Quản lý các dự án xây dựng, giao thông, Kỹ thuật hạ tầng.

Trong quá trình học tập, 50% học viên xuất sắc nhất sẽ được JICA tài trợ sang Nhật thực tập 3 tháng trước khi làm luận văn tốt nghiệp.

Trưởng nhóm chịu trách nhiệm xây dựng và triển khai chương trình phía ĐHQGHN: GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, phía ĐH Tokyo GS.TS Kato Hironori.

Ảnh trên: GS Nguyễn Đình Đức, GS Kato Hironori và các giáo sư Việt Nam, các giáo sư ĐH Tokyo tham gia xây dựng chương trình ths Kỹ thuật hạ tầng (ĐHQG Hà Nội, 12.12.2015).

X an ios 6 makeover thanks to a new winterboard theme released on cydia.

Nhân ngày sinh nhật, nhìn lại một chặng đường dài phấn đấu

Hôm nay (11.10), đúng ngày sinh nhật.

Giật mình thoáng cái đã đi quá nửa đời người.

Cái gì muốn để lại cho con cái, cho các học trò đây?

Tôi muốn để lại một bài học, là làm người, phải biết vượt qua khó khăn thử thách. Mà thử thách lớn nhất của đời người là vượt qua khẩu nghiệp.

Phật dạy: KHẨU NGHIỆP là cái nghiệp lớn nhất của con người:
http://www.dntgiang.com/…/khau-nghiep-la-nghiep-nang-nhat-c…

Qủa đúng như vậy.

Trong ngàn cái khổ, thì cái khổ nhất của con người là cái khổ trong tâm, tức là miệng tiếng. Ai đã từng bao giờ bị vu oan giá họa? bị bôi nhọ và bị người khác “gắp lửa bỏ vào bàn tay” bao giờ chưa? Đó là cái khổ nhất. Và Ngài đã dạy, phải biết bỏ qua, “vứt đi” để sống và làm việc của mình.

Nhưng vượt qua được, vứt đi được, là cả một sự nỗ lực không đơn giản chút nào.

Một khẩu nghiệp lớn mà tôi phải gánh chịu, đó là danh hiệu viện sỹ.

Khẩu nghiệp ấy, vận vào tôi, cách đây hơn 10 năm, và đúng thời điểm đang tràn đầy nhiệt huyết. Từ năm 2005, tôi đã là một Trưởng ban trẻ nhất của ĐHQGHN, được quy hoạch, và đang trong giai đoạn được lãnh đạo quan tâm sắp xếp phân công nhiệm vụ, Và ngay lúc đó, xuất hiện hàng loạt tin đồn, loan tin thất thiệt, nói xấu về bằng cấp và học vị, về thời gian tôi học ở bên Nga. Thôi thì đủ thứ chuyện, không thành có, cứ như thật. Cao điểm là những tin này xuất hiện công khai trên mạng Internet lần đầu tiên từ tháng 4.2009, đúng vào thời điểm nhạy cảm, khi đó tôi là một trong những ứng viên sáng giá đang được xem xét để cất nhắc, đề bạt.

Với sức mạnh của Internet, tin này lan đi như bệnh dịch. Không ít bạn bè, đồng nghiệp, và có lẽ nhiều người không biết tôi, khi đó đã nghĩ và nhìn về tôi đầy hoài nghi, thậm chí là xa lánh.

Một số ít thì sung sướng lắm!

Tôi không trách người viết. Vì người viết chưa có đủ thông tin, và đã bị lợi dụng để ai đó kích động, khơi lên lòng đố kỵ. mà sự đố kỵ, như thần thoại Hy Lạp đã viết, khủng khiếp lắm, còn có thể là ngọn lửa của chiến tranh.

Nhưng nguy hiểm hơn, là đã bị lợi dụng.
Từ một bài, đã được những người (hoặc có thể chỉ 1, vài người) khác đưa thêm comments, thêu dệt và thế là thành cả một tiểu thuyết.

Mãi sau này qua những kênh điều tra độc lập, tôi mới biết sự thực, là đã có một số người đã được thuê , trả tiền để làm việc comments, phát tán và thêu dệt thêm vào. Tức là ông Trời đã sai khiến để họ tạo nên thêm khẩu nghiệp cho mình.

Cuộc đời là như vậy! Khẩu nghiệp là như vậy.
Không thể nào tự thanh minh được. Thậm chí mọi thanh minh ngay lúc đó đều là vô nghĩa.

Đau quá, phải không các bạn? Có nghiệp nào ác hơn thế không. Nhiều lúc, nước mắt chảy ngược vào trong tim.

Phật dạy khẩu nghiệp là nghiệp lớn nhất, cho nên tạo khẩu nghiệp cho người khác, cũng là điều tàn ác nhất.

Ai đã từng trải qua, chắc sẻ chia với những gì tôi viết.

Phật dạy phải “vứt khẩu nghiệp” đi. Khẩu nghiệp trong bài viết về lời Ngài dạy trên kia, là tiếng chửi. Ngài dạy, mặc kệ ai chửi, ta vẫn đi (tôi hiểu được câu chửi, tức diễn đạt sự việc xảy ra trong thời điểm ngắn).
Còn khẩu nghiệp của kiếp người, có khi là cả đời người. Có lẽ là vì một ngày trên thiên giới, bằng cả trăm năm dưới trần gian. Nên một cái chớp mắt khẩu nghiệp của Ngài, vận bằng cả 10 năm của cuộc đời trần thế của chúng con chăng?

Ngài bỏ lại khẩu nghiệp ở “ven đường”, coi như không có, để đi tiếp con đường tu hành giác ngộ.
Còn chúng con thì phải sống chung với nó.

Và, chính trong những năm tháng khó khăn nhất, tôi đã ngộ ra rằng, chỉ bằng cách phải chịu đựng, chấp nhận và vượt qua thử thách bằng sự kiên trì, làm việc quên mình và cống hiến, nỗ lực vượt bậc với niềm tin vào bản thân mình, niềm tin vào con người thì mới có thể vượt qua được khẩu nghiệp.
Thời gian và kết quả công việc sẽ là người bạn đồng hành và là lực đẩy tốt nhất giúp chúng ta “quẳng đi hoàn toàn” được khẩu nghiệp.

Mới ngày nào tuổi mới đôi mươi, phơi phới niềm tin.
Ngoảnh lại đã tốt nghiệp đại học được hơn 30 năm, đã đi quá nửa đời người.

Tôi tốt nghiệp thủ khoa K.25 Đại học THHN 1984, được xếp hạng xuất sắc. Điểm trung bình chung của tất cả các môn, của toàn khóa học là 9,6/10 điểm. Mặc dù được chuyển tiếp ngay làm NCS, nhưng thời đó tôi phải thi chọi chung với các thầy, và tôi đã đỗ đầu với số điểm cao nhất (27,5/30). Năm 1985-1986, khi sang Khoa Lưu học sinh Nga của ĐH Ngoại ngữ để học tiếng Nga chuẩn bị đi làm NCS nước ngoài, tôi cũng lại dành được Huy chương Bạc trong kỳ thi Olymlic tiếng Nga trong ngày thi vào 22.4 (đúng ngày sinh nhật của Lê Nin), và từ trước đó, thường tất cả các giải này đều thuộc về các bạn lưu học sinh đã từng học chuyên ngoại ngữ (chứ không phải NCS).

Bảo vệ Tiến sỹ tại MGU (1991), và TSKH tại Viện Hàn lâm KH Nga (1997), tại chính các hội đồng mà các nhà khoa học đầu ngành của Nga tham gia với số phiếu tuyệt đối 17/17; và cũng tại chính các Hội đồng đã chấm luận án TS, TSKH cho các nhà khoa học đầu ngành đàn anh của Việt Nam thế hệ trước tôi.

Danh hiệu viện sỹ chính là khẩu nghiệp vận vào đời tôi. Danh hiệu đó là có thực, và còn được trao cho một số nhà khoa học lớn khác của Việt Nam. Tiếc là nó đến quá sớm với tôi, khi tuổi đời còn quá trẻ. Cái nỗi khổ nhất là phải sống với vận hạn khẩu nghiệp, biến người chân chính được hiểu như hàng rởm. Khẩu nghiệp, tức là miệng tiếng, làm cho con người ta lúc nào cũng bị thiên hạ xem như tội đồ. Mà lại đúng ở quãng tuổi đời trẻ đẹp nhất.

Khổ tâm lắm!

Nhưng tôi không dùng những danh hiệu đó để hãnh tiến, để được hưởng lương nhà nước và để tiến thân.

Về nước, tôi phải trải qua quá trình từ cán bộ hợp đồng, cứ tuần tự cho đến khi được phong PGS (2007) và GS (2013), không có gì là đặc cách.

May thay là trong muôn vàn khó khăn thử thách và sóng gió như vậy, lãnh đạo ĐHQGHN vẫn có sự lựa chọn sáng suốt. Cuối năm 2012 đã lựa chọn tôi đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Đào tạo (lúc này được gộp cả chức năng quản lý đào tạo đại học và sau đại học), một trọng trách cao hơn, nặng nề hơn, chung cho cả ĐHQGHN, đã giúp tôi phát huy được rất nhiều sáng kiến, tâm huyết và sức lực của mình cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao và bồi dưỡng nhân tài.

Đến khi phong chức danh GS năm 2013, cũng có ý kiến của thành viên Hội đồng Nhà nước nói những gì họ nghe đồn bấy lâu công khai ra trước Hội đồng để Hội đồng thảo luận, cân nhắc. Và Hội đồng chức danh GSNN đã sáng suốt thông qua. Năm đó, tôi trở thành GS trẻ nhất của ĐHQGHN nói riêng và của cả Ngành Cơ học Việt Nam.

Năm sau, 2014, trở thành thành viên của Hội đồng chức danh Giáo sư ngành Cơ học nhiệm kỳ 2014-2019.

Vậy điều mà tôi muốn để lại cho các con, và các thế hệ học trò, đó là bài học của sự kiên nhẫn và lòng vị tha. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”.

Vết thương rồi mãi cũng lành. Sông có khúc, người có lúc.

Anh hùng thì đa nạn. “Nhưng anh hùng tất sẽ gặp được quý nhân”.

Còn những người gieo khẩu nghiệp – chắc chắn không thể làm lung lay được ý chí và cản trở được con đường của những con người chính trực, đầy nghị lực và niềm tin.

Trải qua hơn 10 năm sống chung với khẩu nghiệp, đến nay, tôi tin là qua những bài tôi viết tâm huyết về các hoạt động khoa học và đào tạo của ĐHQGHN, mọi người đọc, và sẽ hiểu tôi là con người như thế nào (văn là người).

Tôi cũng tin là qua quá trình dài học tập, trưởng thành từ tấm bé của tôi đến nay, những thành quả, đóng góp cụ thể trong đào tạo SV, HVCH, NCS, sự trưởng thành của các học trò, sự phát triển mạnh mẽ của Nhóm nghiên cứu và các công bố khoa học, đóng góp cho ngành, cũng như trên các cương vị và kết quả công tác từ trước tới nay: từ giảng viên hợp đồng, chuyên viên khoa Sau đại học, phó ban Đào tạo, Phó ban KHCN, rồi Trưởng Ban KHCN, Phó Hiệu trưởng ĐHCN, nay là Trưởng Ban Đào tạo (ĐH và SĐH), và tự hào hơn, có lẽ còn là người duy nhất trong các lãnh đạo các ban chức năng được may mắn làm việc trực tiếp dưới đủ cả 4 đời Giám đốc ĐHQGHN, đủ để tất thảy bạn bè và mọi người hiểu được thực chất và đánh giá được phẩm chất và năng lực của tôi.

Sự tin tưởng của lãnh đạo ĐHQGHN, của Hội đồng ngành và Hội đồng chức danh GSNN, sự tin yêu của các thế hệ học trò và tín nhiệm của các đồng nghiệp là những minh chứng.

Khẩu nghiệp khởi từ tà tâm. Sự giác ngộ và tuệ nhãn, chính trực của con người là chính thiện. Và chính sự phấn đấu, khiêm nhường và nỗ lực phi thường là đạo hào quang, để tiếp dẫn ánh sáng của chính nghĩa, của lẽ phải được chiếu rọi, tỏa sáng, xóa tan đi khẩu nghiệp và lòng đố kỵ. Sự tu tập như vậy là đạt thành chính quả. Nhưng phải nhớ, là cần sự kiên nhẫn, bền bỉ và kiên trì.

Tôi rất mừng là trải qua hơn 10 năm gian nan vất vả nếm trải, kiên trì chịu đựng, thiệt thòi rất lớn vì những điều này tiếng nọ, khẩu nghiệp lớn quá! Nhưng cuối cùng, bằng sự nỗ lực không ngừng, bằng sự lao động vượt bậc của bản thân, những tâm huyết và đóng góp thực sự cho nhà trường và cho hoạt động khoa học và đào tạo, tôi đã được cơ quan, nhà trường, ĐHQGHN, đồng nghiệp trong và ngoài nước ghi nhận và đánh giá công bằng.

Phải chăng mình đã tuân lời Phật dạy, phải biết tích lũy công đức, nên khẩu nghiệp được vợi đi rất nhiều chăng?

Như vậy, muốn vượt qua được khẩu nghiệp ở trần gian, không chỉ quên đi mà được, muốn vứt là vứt ngay đi được, mà phải có sự nỗ lực, phấn đấu, và phải có thời gian. Bài học tôi nhận ra ở cuộc đời này là như thế.

Cổ nhân có câu “trong cái rủi có cái may”, và “đường dài mới biết ngựa hay”. Đúng là nếu không có khẩu nghiệp, thì có khi mình lại sinh ra kiêu ngạo, sẽ thiếu đi sự rèn luyện và tích lũy, trưởng thành, chưa chắc đã được như ngày hôm nay.

Và, không có khó khăn và thử thách, sao chúng ta biết được đầy đủ và chính xác ai là tri kỷ, tri ân của chúng ta trong cuộc đời này?

Tôi tin là mặc dầu trải qua những thử thách, khó khăn và cả nhiều thiệt thòi, nhưng với một tấm lòng nhân ái và niềm tin, bằng cả một sự nhẫn nại, hy sinh, bằng cả một quá trình kiên trì lao động và phấn đấu bền bỉ không biết mệt mỏi, khẩu nghiệp vừa là cái hạn, vừa là cái nghiệp, nhưng cũng chính là người thầy nghiêm khắc nhất, đã dạy cho tôi hiểu thấu đáo đạo lý, ý nghĩa cuộc sống và giá trị đích thực, chân chính của mỗi con người.

Giờ đây, tôi có thể tự hào và tự tin, ngẩng cao đầu, sánh bước cùng với bè bạn và đồng nghiệp trong sự nghiệp trồng người.

“Hạnh phúc chỉ mỉm cười với những ai kiên trì và hăng say lao động”.

Khẩu nghiệp có lẽ ít nhiều ai cũng có, cũng gặp trên đường đời, và điều cuối cùng, tôi muốn nhắn nhủ là mỗi chúng ta, để vượt qua khẩu nghiệp, đừng né tránh, hãy bình tĩnh, can đảm đón nhận như một phần của cuộc sống và kiên trì phấn đấu, nỗ lực không ngừng để vượt qua.

Khẩu nghiệp là một sự rèn luyện, là thước đo của tâm đức và cũng là thước đo của sự nỗ lực, tài năng.

Và muốn tích đức, hãy luôn nhớ lời răn của Phật: “Khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà một người có thể tạo ra. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành, còn vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được”.

Hãy cẩn trọng với lời nói của mình, đừng gây ra thị phi vì vô ý thức.

Và trong cuộc đời, hãy luôn ghi nhớ những lời Oscar Wilde đã nói: “Every saint has a past, every sinner has a future” , nghĩa là: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và tội đồ nào cũng có một tương lai”.”

Make your own arcade games, platformer games, spaceship shooters, or space adventure https://resume-chief.com/ professional resumes games.