GS.TSKH NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC VỚI NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ ĐÓNG GÓP TRONG VIỆC THÀNH LẬP VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG NGÀNH KHOA HỌC MỚI

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là một trong những nhà khoa học đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu và kết cấu tiên tiến. Ông cũng là người Thầy tâm huyết và dìu dắt nhiều thế hệ học trò thành tài. Nhưng một trong những đóng góp không nhỏ của ông đó là, thành lập và phát triển những ngành khoa học mới.

Thành lập những ngành, khoa mới

Đại học không chỉ là nơi giảng dạy và truyền thụ kiến thức, mà còn là cái nôi sáng tạo tri thức mới. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo cần phải thông qua nghiên cứu khoa học. Ý thức được tầm quan trọng của việc gắn đào tạo với nghiên cứu, , GS Nguyễn Đình Đức đã bắt tay vào việc gây dựng và thành lập Nhóm nghiên cứu (NNC) ngay từ năm 2009, khi đang đảm nhiệm chức vụ Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ của Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN). Mặc dù, mô hình đào tạo gắn với nghiên cứu cũng như vai trò của NNC trong trường đại học đã được nhắc đến từ lâu, nhưng trên thực tế vào thời gian này ở Việt Nam vẫn còn rất ít nhóm hoạt động hiệu quả. Đây chính là động lực cho GS. Nguyễn Đình Đức thành lập nhóm và thử nghiệm thành công.
Ban đầu, nhóm chỉ có Thầy và một vài học trò. Nhưng là người thầy tận tụy và tâm huyết với nghề, ông đã truyền cảm hứng cho học trò qua những bài giảng, “thắp lên” ngọn lửa đam mê khoa học, tình yêu ngành nghề, khơi dậy tiềm năng sáng tạo ở thế hệ trẻ. Một thời gian sau học trò đến với ông ngày một đông hơn. Thầy trò miệt mài cùng nhau, nghiên cứu và những bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín cũng ngày một nhiều. Năm 2015, trên nền tảng kết quả nghiên cứu thành công của nhóm, đồng thời nhận thấy sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ hiện đại không thể thiếu sự tham gia của các vật liệu và kết cấu tiến tiến, GS Đức đã thành lập Phòng thí nghiệm và mở đào tạo chuyên ngành Vật liệu và Kết cấu tiên tiến tại Khoa cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN). Đồng thời, để tạo điều kiện cho sinh viên có năng lực và đam mê nghiên cứu có điều kiện tiếp tục học cao hơn ở bậc sau đại học, ông đã chủ trì xây dựng đề án mở ngành đào tạo tiến sỹ Cơ học Kỹ thuật ở Trường Đại học Công nghệ vào năm 2013 và ngay sau đó ông đã có lứa sinh viên giỏi đầu tiên được chuyển tiếp làm NCS khi tuổi đời rất trẻ.

Không chỉ thành lập Phòng thí nghiệm, mở ngành mới với triết lý “học đi đôi với hành”, sinh viên, NCS không chỉ tiếp thu tốt kiến thức trên lớp mà còn phải giỏi trong nghiên cứu khoa học, GS Nguyễn Đình Đức còn có hoài bão xây dựng ĐHQGHN không chỉ đi đầu về khoa học cơ bản, mà còn phải vững mạnh về kỹ thuật và công nghệ. Đội ngũ trí thức gồm Thầy và trò phải tham gia giải quyết được những yêu cầu cấp bách của thực tiễn đề ra. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang đô thị hóa, đẩy mạnh xây dựng hệ thống kỹ thuật hạ tầng, xây dựng- giao thông, với sự phát triển thần tốc của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đã mở ra một cơ hội to lớn đối với việc đào tạo các ngành nghề mới này. Nắm bắt được cơ hội đó, Giáo sư Đức đã xây dựng chương trình đào tạo Ngành kỹ sư Công nghệ kỹ thuật – xây dựng giao thông và bắt đầu tuyển sinh từ 2017. Đến năm 2018, lãnh đạo ĐHQGHN và trường ĐH Công nghệ đã ủng hộ GS Đức thành lập Bộ môn Công nghệ kỹ thuật xây dựng giao thông trực thuộc trường (tương đương cấp Khoa). Theo tính toán khảo sát sơ bộ, trong vòng 5 năm tới Việt Nam cần khoảng 5 triệu kỹ sư, lao động trong lĩnh vực này. Việc đào tạo các em sinh viên, NCS ngành này sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

Bên cạnh đó, với uy tín của nhà khoa học và quan hệ hợp tác với các cơ quan, trường đại học của Nhật Bản – quốc gia đầu tư ODA lớn nhất ở Việt Nam trong lĩnh vực kỹ thuật hạ tầng, GS Nguyễn Đình Đức đã đề xuất, xây dựng chương trình đào tạo thạc sỹ Kỹ thuật hạ tầng ở Đại học Việt Nhật với các hướng chuyên sâu cơ bản như: tính toán kết cấu và thiết kế; công nghệ -kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng, thi công; nền móng công trình, vật liệu mới; quy hoạch; quản lý dự án và trở thành Giám đốc chương trình đầu tiên của ngành này. Đối tác chính của chương trình là Đại học Tokyo và 10 trường đại học lớn khác của Nhật Bản. Chương trình Kỹ thuật hạ tầng có sự tham gia giảng dạy trực tiếp của trên 50% là các giáo sư người Nhật. Năm 2015, chương trình đào tạo thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng ở ĐH Việt Nhật đã được phê duyệt và bắt đầu tuyển sinh từ năm 2016.

Xây dựng và phát triển

Vượt qua muôn vàn khó khăn về tài liệu, cơ sở vật chất, chỗ làm việc, duy trì tổ chức hoạt động của nhóm, sau 8 năm xây dựng và phát triển, NNC của GS Đức đã lớn mạnh, không chỉ có đông đảo đội ngũ sinh viên, nghiên cứu sinh (NCS) mà còn có nhiều tiến sỹ trẻ tham gia với số lượng hơn 40 thành viên. Thành phần được mở rộng, không chỉ có các đơn vị của ĐHQGHN như ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Công nghệ, ĐH Việt Nhật mà còn có sự tham gia của nhiều NCS và tiến sỹ trẻ đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu khác trên địa bàn cả nước và cả ở nước ngoài. Uy tín của nhóm nghiên cứu đã vang xa và có sức thu hút trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Quan trọng hơn, nhóm đã “gặt hái” được nhiều thành tựu quan trọng trong nghiên cứu và đào tạo, đồng thời góp phần phục vụ thực tiễn. Cụ thể, nhóm đã công bố trên 250 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có 120 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE) có uy tín, được cấp 1 bằng sáng chế trong sản xuất chế tạo vật liệu nanocomposite ứng dụng chống thấm, xuất bản giáo trình và sách chuyên khảo (bằng tiếng Anh) phục vụ đào tạo đại học, sau đại học. Trong thời gian qua đã có 5 NCS bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sỹ và hiện đang đào tạo 10 NCS, 2 trong số 4 giải thưởng Nguyễn Văn Đạo của ngành Cơ học thì đó là học trò của GS Đức (TS Hoàng Văn Tùng và TS Trần Quốc Quân).

Ngoài ra, bằng uy tín khoa học của mình, GS. Nguyễn Đình Đức cũng đã thu hút được đội ngũ cán bộ, giáo viên rất giỏi và giàu kinh nghiệm tham gia giảng dạy, hướng dẫn cho học sinh, NCS của những ngành, khoa mới thành lập. Đó là các giáo sư, giảng viên ưu tú đến từ các cơ quan: Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam, Học Viện Kỹ thuật Quân sự, ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐH Giao thông, ĐH Xây dựng, ĐH Kiến trúc, ĐH Thủy lợi,…Đồng thời, Viện Cơ học, Viện KHCN Xây dựng, Viện KHCN giao thông. Các doanh nghiệp có uy tín trong lĩnh này như FECON, CONINCO,… cũng giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ.

Bên cạnh các hướng nghiên cứu cơ bản, các đề tài khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, đề tài của NCS trong các ngành mới này đã tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề cấp bách trong thực tiễn như: nghiên cứu ổn định an toàn kết cấu dưới các loại tải trọng đặc biệt; vật liệu composite tiên tiến ứng dụng trong đóng tàu; gia cường sửa chữa cầu và các kết cấu công trình xây dựng bằng vật liệu composite; nghiên cứu kỹ thuật khoan cọc nhồi gia công nền móng trong thực tiễn ở Việt Nam; nghiên cứu về công trình xanh và tính toán hiện đại trong thiết kế công trình; sử dụng vật liệu nano làm tăng hiệu qủa sử dụng năng lượng mặt trời; đánh giá trữ lượng và tiềm năng của năng lượng điện gió tại khu vực hải đảo ngoài khơi Việt Nam; đánh giá hiệu quả của BRT; tối ưu hóa các điểm đỗ xe công cộng; v.v…Các sinh viên không chỉ tham gia nghiên cứu, mà còn được gửi đi thực tập thực tế tại các doanh nghiệp. Đặc biệt, các em học thạc sỹ ở ĐH Việt Nhật, với sự tài trợ của JICA được đi thực tập 3 tháng tại Nhật Bản. Nhờ có kiến thức thực tế cũng như chuyên môn vững vàng, sau khi tốt nghiệp đại học, các em đều học chuyển tiếp thạc sỹ, làm NCS, hoặc tìm được việc làm ngay ở các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Với chất lượng đào tạo tốt, một số em tốt nghiệp đại học ở ĐH Công nghệ và thạc sỹ ở ĐH Việt Nhật đã được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp của Nhật Bản và Hàn Quốc.

Hội nhập và sánh vai

Nhóm nghiên cứu của GS. Nguyễn Đình Đức luôn chú trọng nghiên cứu những lĩnh vực mới trong khoa học như: vật liệu chức năng FGM, Vật liệu nano polymer composite, vật liệu đặc biệt chịu tải trọng nổ,… Đây là những hướng nghiên cứu mới của thế giới. Cụ thể, GS Nguyễn Đình Đức đã bắt tay vào nghiên cứu vật liệu FGM năm 2005 và năm 2008 đã cùng NCS có công bố đầu tiên về ổn định tĩnh và động lực học của kết cấu tấm FGM. Kể từ đó đến nay, đã có nhiều bài báo và luận án thạc sỹ, tiến sỹ đề cập đến về vấn đề này. Vật liệu polymer, một vật liệu có nhiều lỗ rỗng và cơ bản là không dẫn điện. Nhưng ông đã nghiên cứu, bổ sung một cách hợp lý các hạt nano để làm giảm các lỗ rỗng, dưới tác động tích cực của một hiệu điện thế, vật liệu polymer, đặc biệt polymer hữu cơ có thể phát quang. Hiệu ứng này đã mở ra muôn vàn ứng dụng trong thực tế,…Kết quả nghiên cứu khoa học của ông và NNC đã được cộng đồng khoa học quốc tế đánh giá cao, được mời báo cáo tại nhiều hội nghị quốc tế tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn độ…

Thông qua buổi Seminar của các nhà khoa học hàng đầu về các kết cấu đặc biệt chịu tải trọng nổ của ĐH Melbourne (Úc) trong một chuyến công tác tại Việt Nam, sáu tháng sau, GS Đức và các cộng sự trong NNC đã có những bài công bố trên các tạp chí quốc tế về vấn đề này và sau đó đã tiến tới bedava bonus bedava bonus veren bahis siteleri canlı casino canlı bahis canlı bahis oyna canlı bahis sitesi canlı bahis ký kết hợp tác giữa NNC của ông và NNC của ĐH Melbourne.

GS Đức và NNC cũng đã hợp tác hiệu quả với các nhà khoa học hàng đầu của ĐH Birmigham trong lĩnh vực Machine learning (học máy – trên nền tảng trí tuệ nhân tạo) thông qua đề tài hợp tác của Quỹ Newton do Hội Khoa học Công nghệ Hoàng Gia Anh tài trợ năm 2017. Thuật toán tối ưu của bầy ong đã được các giáo sư của ĐH Birmingham đề xuất từ những năm 80 và đã có hàng trăm luận án tiến sỹ, hàng nghìn bài báo đã công bố của các nhà khoa học từ nhiều quốc gia nghiên cứu và phát triển mở rộng lý thuyết này ứng dụng trong thực tế và Machine learning. GS Nguyễn Đình Đức và các học trò của ông trong NNC đã tiếp thu, lĩnh hội và áp dụng cho các tối ưu hóa kết cấu FGM, và lần đầu tiên đã đăng cai tổ chức hội nghị quốc tế về tối ứu hóa của bầy ong tại ĐHQGHN vào tháng 3 năm 2018, thu hút được những nhà khoa học từ các trường đại học hàng đầu của Vương Quốc Anh và Trung Quốc tham gia.

GS Nguyễn Đình Đức cho biết, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của PTN là các lĩnh vực: composite, vật liệu chức năng và vật liệu nano, vật liệu thông minh. Bên cạnh đó, NNC và PTN của ông cũng là cơ sở nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực vật liệu nano composite ứng dụng trong công nghiệp đóng tàu, trong lĩnh vực năng lượng mới; các loại vật liệu và kết cấu auxetic có khả năng giúp giảm chấn, hấp thu sóng nổ cũng như có thể giúp lưu trữ lượng thông tin khổng lồ, đáp ứng yêu cầu của trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0; các vật liệu tiên tiến có tính năng đặc biệt sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt ở Việt Nam,…Từ đó đã hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến gắn với thông minh, với cách mạng công nghiệp 4.0, với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở ĐHQGHN do GS. Nguyễn Đình Đức đứng đầu.
GS Nguyễn Đình Đức còn là Trưởng ban tổ chức và giữ vai trò nòng cột của nhiều hội nghị quốc tế có uy tín như: Hội nghị quốc tế về Cơ học Kỹ thuật và Tự động hóa ICEMA 2010, ICEMA 2012, ICEMA 2014, ICEMA 2016; Workshop quốc tế thường niên Vietnam – Canada – Japan về composite; Hội nghị quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS TM 2018 (tháng 9 năm 2018) với sự tham gia của hơn 400 nhà khoa học, với hơn 200 báo cáo và 39 báo cáo mời của hàng trăm nhà khoa học hàng đầu từ 14 quốc gia tham dự.

GS Nguyễn Đình Đức cũng là trong số ít các nhà khoa học Việt Nam tham gia hội đồng biên tập của các tạp chí quốc tế có uy tín. Ông là thành viên hội đồng biên tập quốc tế của 4 tạp chí ISI là Cogent Engineering (Nhà xuất bản Taylor & Francis – Vương Quốc Anh), Journal of Science: Advanced Materials and Devices (Nhà xuất bản Elsevier, Hà Lan), Journal of Science and Engineering of Composite Materials (Nhà Xuất bản De Gruyter, Đức), Journal of Mechanical Engineering Science (Proc. IMechE Part C, Nhà xuất Bản SAGE, Viện KHCN Hoàng gia Anh) và được mời làm chuyên gia nhận xét, phản biện cho hơn 60 tạp chí ISI có uy tín của quốc tế. NNC, PTN và Khoa mới thành lập của GS Nguyễn Đình Đức đã và đang có quan hệ hợp tác bình đẳng, ngang tầm với các nhà PTN và các nhà khoa học có uy tín trong các trường đại học hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Úc, Canada,….như Đại học Công nghệ Tokyo và Đại học Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Melbourne (Úc), Đại học Birmingham (UK), ĐH Yonsei (Hàn Quốc), Đại học Tổng hợp Matxcova MGU (Liên bang Nga),…Ông cũng là thành viên của Hội đồng quốc tế về tính toán trong khoa học vật liệu ACCMS, thành viên Ủy ban quốc tế về vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi FGM.

Các học trò được ông đào tạo và dìu dắt đã tỏa đi bốn phương trời, làm việc trong các môi trường trong nước và quốc tế, được cơ quan, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đánh giá cao về trình độ và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. erotik film Thậm chí có những em đào tạo trong nước ở NNC của GS Nguyễn Đình Đức còn xuất sắc hơn nhiều sinh viên, học viên cao học và NCS được đào tạo 100% ở nước ngoài.

Như vậy, với vai trò là người kiến tạo, cập nhật những hướng nghiên cứu mới nhất của thế giới trong NNC, vai trò nòng cột tổ chức nhiều hội nghị quốc tế có uy tín thành công, là thành viên của những Hội đồng biên tập tạp chí quốc tế có uy tín, đào tạo được những sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh sau khi ra trường đáp ứng được những tiêu chí khắt khe của các cơ quan và doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế…, đã chứng tỏ Thầy, trò của GS. Nguyễn Đình Đức và NNC đã và đang dần hội nhập và sánh vai với nền khoa học các nước trên thế giới. Kết quả đó cũng khẳng định vị thế ngành giáo dục đại học Việt Nam, của Đại học Quốc gia Hà Nội và vai trò của những người thầy cô giáo.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nêu trên, tâm sự với chúng tôi, GS Nguyễn Đình Đức cũng trăn trở và ước ao giá như được đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất và kinh phí cho nghiên cứu, có cơ chế đột phá để thu hút nhân tài, sẽ giữ chân được nhiều hơn các em học sinh giỏi, tài năng ở lại trường tiếp tục theo đuổi con đường nghiên cứu, thay vì hiện nay các em phải bươn chải kiếm sống ở bên ngoài.
Trên cơ sở đó cũng sẽ thu hút được nhiều tiến sỹ trẻ tài năng ở nước ngoài về làm việc, và đội ngũ cán bộ của nhà trường sẽ ngày càng hùng hậu, sẽ có thêm nhiều công bố quốc tế và phát minh sáng chế hơn nữa.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng hy vọng những học trò do ông đào tạo sẽ trở thành những hạt nhân lan tỏa đam mê khoa học và sự cống hiến tới các bạn trẻ để góp phần xây dựng đất nước Việt Nam hội nhập và phát triển, vươn lên bứt phá ngoạn mục trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

Vân Hương

office 2019 kaufen

GS Nguyễn Đình Đức tham gia Ủy ban quốc tế về FGM

Tháng 8/2018, Hiệp hội quốc tế về vật liệu chức năng thông minh có cơ lý tính biến đổi đã tổ chức Congress tại Nhật Bản ((GS Akira Kawasaki, Tohoku University, Nhật Bản và GS Omer Van Der Biest, Katholieke Universiteit Leuven, Bỉ – là đồng Chủ tịch) đã kết nạp Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội và nhất trí giới thiệu, phê chuẩn GS Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN đại diện cho các nhà khoa học của Việt Nam tham gia Ủy ban này.

Hiệp hội tập hợp tất cả các nhà khoa học trên toàn thế giới về vật liệu composite chức năng thông minh FGM. Ủy ban quốc tế có đại diện của 13 quốc gia, trong đó từ năm 2018 sẽ có đại diện của Việt Nam (Nghiên cứu và công bố quốc tế của GS Nguyễn Đình Đức và các nhà khoa học Việt Nam về FGM có uy tín và tiếng tăm trong cộng đồng khoa học quốc tế).

Sự kiện này mở ra cơ hội hợp tác, hội nhập quốc tế trên tầm cao mới cho các nhà khoa học Việt Nam.

DANH SÁCH THÀNH VIÊN ỦY BAN QUỐC TẾ VỀ FGMs:

1.[USA]

– Prof. Glaucio H. Paulino
Co-Chairman Department of Civil and Environmental
Engineering, Georgia Institute of Technology,
5142B Jesse W.Mason Building, 790 Atlantic Drive NW, Atlanta, GA30332

– Prof. Marek-Jerzy Pindera
Dept. of Civil Engineering School of Engineering and Applied Science
University of Virginia
Thornton Hall Charlottesville, Virginia
22904-4742

– Prof. Jeongho Kim University of Connecticut,
Civil & Environmental Eng.Dept.
261 Glenbrook Rd., Unit 3037
US-Storrs 06269

-Prof. Huming Yin Department of Civil Engineering and Engineering Mechanics, Columbia University
Address: 634 SW Mudd (Mail Code: 4709)
500 West 120th Street
New York, NY 10027

2.[GERMANY]
– Prof. Thorsten Gerdes University of Bayreuth,
Keylab Glastechnologie, Lehrstuhl Keramische Werkstoffe, 95440 Bayreuth, Germany

3.[FRANCE]
Prof. Dr. Jean-François Silvain Institut de Chimie de la Materiere Condensee de Bordeaux, ICMCB-CNRS,
87, Avenue du Docteur Albert Schweitzer, F-33608 PESSAC Cedex, France

4. [BELGIUM]
Prof. Omer Van Der Biest
Co-Chairman of IACFGM Dept. of Metallurgy and Materials Engineering
Katholieke Universiteit Leuven
Kasteelpark Arenberg 44
3001 Heverlee-Leuven

5. [FINLAND]
Prof. Michael M. Gasik
Aalto University Foundation, School of Chemical Technology (Aalto CHEM), Dept. Material Science & Engineering, P.O.Box 16100, FIN-00076 AALTO, Finland

6. [RUSSIA]
-Prof. Evgeny Levashov
Scientific-Educational Center of SHS,
Head of the Department “Powder Metallurgy and Functional Coatings”, National University of Science and Technology “Moscow Institute of Steel and Alloys”, Leninsky Prospect, 4, Moscow, RU-119049

-Dr. Vladimir Sanin Institute of Structural Macrokinetics and Materials Science (ISMAN)
Lab. SHS Melts and Cast Materials
Chernogolovka, Moscow reg., 142432 Russia

7. [CHINA]
-Prof. Lianmeng Zhang State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology
Wuhan 430070

-Prof. Qiang Shen State Key Laboratory of Advanced Technology for Materials Synthesis and Processing, Wuhan University of Technology, 122 Luoshi Road,
Wuhan 430070

-Prof. Qingjie Zhang State Key Laboratory of Materials Synthesis
and Processing, Wuhan University of Technology,
Wuhan 430070

-Prof. Wei Pan Department of Materials Science and Engineering, Tsinghua University
Beijing, 100084 China

-Prof. Chang-Chun Ge University of Science and Technology Beijing, Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics
Xue Yuan Lu No.30, Beijing 100083,China

-Dr. Xiao-Na Ren Institute of Powder Metallurgy and Advanced Ceramics, School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing,
30 Xueyuan Road, Beijing 100083, China

-Prof. Jing-Feng Li
Department of Materials Science and Engineering,
Tsinghua University, Beijing, 100084, P. R. China

-Prof.Zhangjian Zhou School of Materials Science and Engineering, University of Science and Technology Beijing, Lab. of Special Ceramics & P/M, Beijing 100083, China

8. [TURKEY]
Assoc. Prof.
Serkan Dag
Middle East Technical University
Department of Mechanical Engineering, Room # B318, METU, Ankara 06531

9. [BRAZIL]
-Prof. Fernando A. Rochinha Federal University of Rio De Janeiro (UFRJ), Mechanical Engineering Department, Centro de Tecnologia, Bloco G, Sala 203/204,
Cidade Universitária – Ilha do Fundão
PO Box 68503
Rio de Janeiro, 21945-970

– Prof. Emilio C.N.Silva Department of Mechatronics and Mechanical Systems Engineering, University of Sao Paulo,
Av. Professor Mello Moraes, 2231, Sao Paulo,
SP, Brazil, 05508-900

– Prof. Luis Augusto Rocha UNESP – Universidade Estadual Paulista “Júlio de Mesquita Filho”
Faculdade de Ciências, Campus de Bauru (www.fc.unesp.br)
Departamento de Física
Av. Eng. Luiz Edmundo Carrijo Coube, 14-01
17033-360 – Bauru –
SP Brazil

10. [SLOVENIA]
Dr. Sasa Novak Jozef Stefan Institute, Department for Nanostructured Materials – K7, Jamova 39,
SI-1000 Ljubljana, Slovenia

11. [KOREA]
Prof. Hansang Kwon
Department of Materials System Engineering,
Engineering Building 7, Pukyong National University
365 Sinseon-ro, Nam-gu,Busan 608-739, South Korea

12. [VIETNAM]
Prof. Nguyen Dinh Duc
Vietnam National University, Hanoi
Advanced Materials and Structures Lab.,
144 Xuan Thuy Road, Cau Giay District, Hanoi, Vietnam

13. [JAPAN]
– Prof. Akira Kawasaki
Chairman & Secretary of IACFGMs
Department of Materials Processing,
Graduate School of Engineering,
Tohoku University,
6-6-02 Aza-Aoba, Aramaki, Aoba-ku, Sendai, 980-8579 Japan

– Prof. Emeritus Yoshinari Miyamoto Toyotanso, Co.
5-7-12 Takesima, Nisiyodogawa-ku, Osaka, 555-0011, Japan

-Dr. Akinaga Kumakawa
Japan Aerospace Technology Foundation, adana escort adana escort adana escort mersin escort mersin escort mersin escort eryaman escort ankara escort eryaman escort adana escort eryaman escort mersin escort 2-1-40 Takamori, Izumi-ku, Sendai, 981-3203 Japan

-Dr. Yoshikazu Shinohara,
National Institute for Materials Science
1-2-1, Sengen, Tsukuba, Ibaraki 305-0047

-Prof. Takashi Goto Institute for Materials Research, Tohoku University, Katahira 2-1-1, Aoba, Sendai, Japan

-Prof. Yoshimi Watanabe Department of Physical Science and Engineering, Graduate School of Engineering, Nagoya Institute of Technology, Gokiso-cho, Showa-ku,
Nagoya 466-8555, Japan

-Prof. Kazuhiro Hasezaki
Tokushima University, 2-1 Minamijyousanjima,
Tokushima 770-8506, Japan

-Prof. Soshu Kirihara Joining and Welding Research Institute, Osaka University, Mihogaoka 1-11, Ibaraki,
Osaka 567-0047, Japan

Emeritus members :
-Prof. Emer. Wolfgang G.J. Bunk
Am Hagen 14, D-51503
Roesrath-Forsbach, Germany

-Prof. Emer. Fazil Erdogan
Me-Mech. Dept. Bldg. 19
Lehigh University
Bethlehem, PA 18015, USA

office 2013 kaufen

ACCMS TM 2018

ACCMS TM 2018: 07-09 September 2018 in Vietnam National University, Hanoi – Vietnam

The Vietnam National University, Hanoi is very pleased to welcome almost 300 scientists and researchers with 200 research papers from Japan, Korea, China, Taiwan, India, Singapore, Malaysia, Thailand, Philippines, USA, Germany, France, England and Vietnam, with more than 80 foreign members; including 3 Plenary speakers, 39 Invited speakers, 39 Oral reports and 115 Poster reports.

ACCMs conference is a great conference, and be organized by letting various countries to take turns to hold: Japan, Korea, China, Russia, India, Malaysia and so on. And this year, we are very honored to organize ACCMs conference in Vietnam National University in Hanoi (07-09 September 2018: http://accms2018.uet.vnu.edu.vn/).

This ACCMS-TM 2018 aims to promote international exchange of ideas and to share recent advances and developments in all aspects of multi-scale modeling methodology and application in computational materials science. Emphasis is placed on new ideas in the form of novel theories, refined mathematical models and innovative simulation approaches to solve complex multi-disciplinary problems. Of specific interest are the simulation techniques linking different hierarchies in physics, mechanics, chemistry, materials science, composite, engineering, and bio-medicines as well as the coarse-grained methodologies linking quantum, atomistic and statistical theories to modeling engineering problems at the continuum scale.

Report topics are not limited to “Multi-scale modeling and simulations” (accounting for 20%), but also for “Nanostructure materials” (accounting for 15%), “Materials for energy storage and conversion” (accounting for 15%), “Advanced composite and functional-graded materials and structures” (20%) and some other areas with smaller ratios. The quality of the reports that are assessed through abstract is fairly high, with innovative research and great practical use.

One of the remarkable points in the ACCMs this time is that many researches involve simulation of advanced material and smart structures in which the material properties are changing, not likit only in the computation of material itself but also in structures, for the structural stability, both statics and dynamics problems. The research papers in ACCMs will be considered to publish in the special sections of prestigious international journals. Especially, there are over 40 reports of invited famous professors in the world, this is an evidence that ACCMs receives great attention from research community in the world.

ACCMs has a special meaning to Vietnamese researchers and scientists because we have a chance to meet, exchange and learn from the leading professors of the world. Then, we could contribute, improve and develop the new and leading research topics not only in Vietnam, but also in the world nowadays.

On the behalf of the committee of this conference, I am very thankful for Prof. Kawazoe and all international communities letting us have the honor to organize the ACCMs conference at VN national university in Hanoi. I am very grateful to all the care, help and support from University of Engineering and Technology, Vietnam National University – Hanoi, National Foundation for Science and Technology Development of Vietnam (Nafosted), Asia Research Center, Nguyen Tat Thanh University, Vietnam Japan University and so on. And especially, I am thankful for all 300 researchers and scientist in the world joining the conference.

Chairman of the ACCMS TM 2018,
Professor Dr.Sci. Nguyen Dinh Duc
Vietnam National University, Hanoi

This visual, based on docs editors help, is also available in pdf format from essaydragon this page.

office 2019 home business kaufen

SỰ KIỆN LỊCH SỬ: CÔNG BỐ QUYẾT ĐỊNH VÀ RA MẮT KHOA CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT XÂY DỰNG – GIAO THÔNG CỦA TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ – ĐHQGHN, 25/5/2018

Hôm nay, 25/5/2018, nhân ngày thành lập Trường ĐHCN, nhà trường đã long trọng công bố quyết định thành lập Bộ môn CNKT Xây dựng – Giao thông thuộc trường (về mặt hành chính tương đương cấp Khoa) và quyết định bổ nhiệm GS.TSKH Nguyễn Đình Đức làm Chủ nhiệm Khoa đầu tiên.
PGS.TS Nguyễn Việt Hà, Hiệu trưởng đã công bố và trao quyết định thành lập và bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo Bộ môn.
Sự kiện đã đi vào lịch sử của trường ĐH Công nghệ và trang sử vẻ vang của ĐHQGHN.
Xây dựng – Giao thông và Kỹ thuật hạ tầng là những lĩnh vực được quan tâm đầu tư phát triển của mỗi quốc gia, không chỉ là xây nhà, cầu, đường, các công trình hạ tầng, các công trình đặc biệt, mà cả quy hoạch, kiến trúc, đến điều tiết giao thông, các công trình ngầm, dự báo thời tiết với hiện tượng đảo nhiệt đô thị, robot thám hiểu đáy đại dương, cho đến lái xe tự động, thành phố thông minh, kỹ thuật thiết kế ảo cũng như xây dựng sử dụng máy in 3D của cách mạng công nghiệp 4.0,…đều là các bài toán của lĩnh vực này. Phạm vi đào tạo và nghiên cứu là vô cùng rộng lớn và vô tận.
Như vậy ấp ủ hoài bão từ năm 2009, từ khi GS Nguyễn Đình Đức còn đang là Phó Hiệu trưởng Trường ĐHCN – ĐHQGHN, sau hơn 10 năm kiên trì âm thầm xây dựng đội ngũ,  đến nay đã chín muồi và trở thành hiện thực, tạo động lực và cơ hội mạnh mẽ cho sự phát triển của nhà trường và của ĐHQGHN. Tiền thân là Đại học Đông Dương (thành lập 1906), với sự có mặt của lĩnh vực này, ĐHQGHN đã có cơ cấu ngành nghề hoàn chỉnh như Đại học Đông dượng 112 năm về trước (khi đó ĐH Đông Dương có 5 khoa là KH tự nhiện, văn học, luật hành chính, y dược và xây dựng).
Sự ra đời của một tổ chức hoành tráng để đời như vậy là kết quả của một ý chí và nghị lực lớn lao, một khát khao cháy bỏng  được cống hiến với nhà trường, với đời, tâm huyết với nghề, sự kiên trì không nản chí với biết bao nhọc nhằn và công sức của GS Nguyễn Đình Đức, cộng với sự thấu hiểu và ủng hộ, cộng hưởng của lãnh đạo nhà trường, của lãnh đạo ĐHQGHN và của biết bao thầy cô, các nhà khoa học, các đơn vị trong và ngoài ĐHQGHN, và cả sự động viên của các đồng nghiệp trong và ngoài nước, học trò; và vượt qua các khó khăn thửa thách mới có được thành công này.
Chương trình đào tạo được cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực Civil Engineering như University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc).
Độc đáo của chương trình đào tạo là phát huy thế mạnh của trường Đại học Công nghệ như  Công nghệ Thông tin, Điện tử và Vi cơ điện tử, Cơ học Kỹ thuật, cũng như các kiến thức về môi trường và phát triển bền vững của các cơ sở khác trong toàn ĐHQGHN. Đặc biệt thể hiện tính đặc sắc trong các môn học mang tính thời sự như: Công nghệ mới trong xây dựng – giao thông; Thiết kế, thi công các công trình đặc biệt, Thiết kế hệ thống, Phát triển bền vững; Năng lượng mới và tiết kiệm năng lượng; Quản lý và phát triển dự án; công trình xanh; Thích ứng với biến đổi khí hậu, phong thủy,…
Bên cạnh đó, chương trình đào tạo được sử dụng các trang thiết bị hiện đại của PTN kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật, Phòng Thực hành của Khoa Cơ kỹ thuật, các PTN của các đối tác lớn trên địa bàn Hà Nội.
Không chỉ gắn đào tạo với nghiên cứu và công bố quốc tế, sinh viên còn được thực tập sâu tại các cơ quan, doanh nghiệp trong lĩnh vực này để có kỹ năng làm việc ngay sau khi  tốt nghiệp. Nhà trường cam kết 100% sinh viên khi ra trường có việc làm.
Buổi lễ ra mắt và công bố quyết định được diễn ra trang trọng, với sự tham dự của lãnh đạo ĐHQGHN, đại diện lãnh đạo VP và các ban chức năng, đại diện lãnh đạo ĐH KHTN, ĐH Giáo dục, ĐH Việt Nhật, Viện CNTT, Khoa các Khoa học liên ngành, Trung tâm Khảo thí;  Về phí ĐHCN có Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đại diện lãnh đạo các phòng ban, các khoa và các đơn vị thuộc trường, các giảng viên của bộ môn, các em sinh viên của ĐH Công nghệ và đông đủ các em học viên ngành kỹ thuật hạ tầng của ĐH Việt Nhật.
Nhân dịp này, cũng đã diễn ra ký kết hợp tác toàn diện giữa ĐH Công nghệ với ĐH Nguyễn Tất Thành.
Đến dự và chứng kiến còn có đại diện các cơ quan thông tấn báo chí, JICA, Hiệu trưởng ĐH Giao Thông, Hiệu trưởng ĐH Nguyễn Tất Thành, lãnh đạo ĐH Xây dựng, ĐH Thủy lợi, ĐH Kiến trúc, Viện KHCN Xây dựng, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Viện Công binh, Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp IMI, lãnh đạo Công ty CONINCO, Công ty FECON, Công ty cổ phần xây dựng Nam Định, Hội Cơ học Việt Nam và một số công ty, doanh nghiệp khác, thể hiện sự quan tâm và ủng hộ, hợp tác  với Khoa và Nhà trường để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và phát triển lĩnh vực này ở ĐHQGHN.
Ngày hôm nay là khởi đầu cho cả một tương lai rộng dài phía trước !
Nhận dịp này, Bộ môn xin chân thành cảm ơn lãnh đạo ĐHCN, lãnh đạo ĐHQGHN, các cơ quan, doanh nghiệp, các nhà khoa học, các em NCS, học viên, sinh viên, đặc biệt là GS Nguyễn Đình Đức -người sáng lập, và tất cả những ai đã dành cho ngành này, cho thế hệ trẻ, cho Bộ môn, cho ĐH Công nghệ và ĐHQGHN tình yêu và sự tin tưởng..
Đây là clip giới thiệu về Bộ môn:
Tin và ảnh về lễ ra mắt này:

Um verhaltensnderungen herbeizufhren, scheint eine frhe auseinandersetzung bereits im kindes- und jugendalter am https://ghostwritinghilfe.com/masterarbeit-schreiben-lassen/ masterarbeit schreiben englisch geeignetsten.

office 365 kaufen

GS Nguyễn Đình Đức: Người Thầy của nhiều thế hệ học trò vượt khó, xuất sắc


GS.TSKH Nguyễn Đình Đức là chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong lĩnh vực Vật liệu – Kết cấu tiên tiến và Composite, có hàng trăm bài báo trên tạp chí quốc tế ISI. Ông từng là giáo sư thỉnh giảng của nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới. Ông đã lan tỏa kiến thức, niềm đam mê khoa học ấy đến với bao thế hệ học trò.

Quả ngọt từ những hạt nhân

Ngay từ khi về nước năm 2002, GS Nguyễn Đình Đức đã có nhóm nghiên cứu riêng. GS Nguyễn Đình Đức cho biết, trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu và thế mạnh của nhóm nghiên cứu của ông là các lĩnh vực: composite, vật liệu chức năng FGM và vật liệu nano. Nhóm đang tiếp cận các hướng nghiên cứu hiện đại của cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực Cơ học kỹ thuật, kết hợp với trí tuệ nhân tạo, tối ưu hóa, tự động hóa và deep learning.

Ban đầu nhóm nghiên cứu chỉ có tôi và một vài học trò. Một mặt tôi giảng dạy kiến thức cho các em, mặt khác tôi động viên tinh thần, quan tâm tới đời sống của mỗi em để các em yên tâm tiếp cận môi trường nghiên cứu khoa học vốn cần nhiều thử thách về lòng kiên trì. Bên cạnh việc truyền tải tri thức còn là sự miệt mài và đồng hành cùng với các em trong những điều kiện hết sức thiếu thốn về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, có những lúc tưởng chừng không vượt qua nổi, nhưng chúng tôi vẫn luôn động viên nhau, người thầy thì định hướng, dìu dắt; học trò có sức trẻ thì miệt mài. Có nhiều đêm 1- 2 giờ sáng thầy trò vẫn còn trao đổi, thảo luận về đề tài chưa ngã ngũ”,GS Nguyễn Đình Đức nhớ lại.

Các học trò say sưa nghiên cứu khoa học dưới sự dìu dắt tận tình của GS Nguyễn Đình Đức. Ảnh: NVCC

Không phụ những nỗ lực bền bỉ và vượt lên hoàn cảnh ấy, các kết quả nghiên cứu của thầy và trò GS Nguyễn Đình Đức liên tục được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín với hàng trăm bài báo. Theo giới chuyên môn, con số công bố quốc tế này còn nhiều và xuất sắc hơn cả nghiên cứu sinh được du học và đào tạo ở nước ngoài. Học trò đến với GS Nguyễn Đình Đức ngày một nhiều hơn, tiếp cận với các hướng nghiên cứu hiện đại của thế giới và có tiếng trong giới nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước.

Điều đáng nói, điểm tên những học trò thành danh của GS Nguyễn Đình Đức, đa số các em đều ở tỉnh xa, xuất thân từ những gia đình nghèo, học lực năm đầu tiên của nhiều em chỉ ở mức khá, nhưng được thầy dìu dắt, tận tâm chỉ bảo, các em đã vươn lên, tài năng được thắp sáng. Đó là các em như Hoàng Văn Tùng quê ở Ninh Bình, từ nhỏ chỉ sống với mẹ và gia đình thuộc diện khó khăn nhất xã; Trần Quốc Quân, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh – bố ốm đau bệnh tật, mẹ làm nông nghiệp, nhiều lúc tưởng phải bỏ cuộc nghiên cứu khoa học nửa chừng; Phạm Hồng Công, mồ côi bố từ bé. Tôi nhìn thấy ở các em hoài bão vươn tới những trí thức mới, niềm khao khát học tập và sự kiên trì, bền bỉ. Họ đều trở thành những người thành danh trong giới nghiên cứu khoa học trẻ.

TS Trần Quốc Quân (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội)- chàng trai 9X có nhiều bài báo quốc tế được công bố trên tạp chí ISI- chia sẻ: “Những ngày đầu bước chân vào con đường nghiên cứu khoa học còn gặp rất nhiều khó khăn, có nhiều lúc tưởng chừng bế tắc khiến tôi nản chí và muốn bỏ cuộc. Chính thầy là người đã động viên, giúp đỡ để tôi có thể có thêm động lực vượt qua tất cả để đạt được những kết quả ngày hôm nay. Thời gian khó khăn nhất của tôi là lúc chuẩn bị ra trường, trước nhiều lựa chọn cho tương lai của mình, tôi rất phân vân và trăn trở. Khi đến chia sẻ với thầy và xin ý kiến tôi đã nhận được những góp ý chân thành và đưa ra quyết định chính xác nhất. Đến giờ tôi vẫn luôn biết ơn thầy vì điều đó”.

Còn PGS TS Nguyễn Việt Hà, Hiệu trưởng ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội nhận định: “Tôi nhận thấy sự gắn bó gần gũi giữa thầy và các học trò, giữa nghiên cứu sinh khóa trước với các bạn khóa sau, cùng hỗ trợ nhau trong nghiên cứu và chia sẻ cả các vấn đề trong cuộc sống của nhóm nghiên cứu GS Nguyễn Đình Đức. Ngoài sự đam mê khoa học và yêu cầu khắt khe về công việc, GS Đức còn đặc biệt ở sự tận tình, bên cạnh vai trò người thầy thì như một người anh cả, một phụ huynh để chăm lo cho toàn nhóm nghiên cứu. Có lẽ đây là một điểm rất đáng trân trọng ở GS Đức. Nhờ đó mà nhóm nghiên cứu duy trì ổn định, tạo ra một cộng đồng giúp đỡ nhau, động viên nhau bền bỉ trong nghiên cứu và giảng dạy”.
Đến phát triển phòng thí nghiệm tầm quốc tế

Từ một nhóm nghiên cứu của mình, GS Nguyễn Đình Đức đã thành lập phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội). Đây là sự kết hợp giữa hai mô hình: Tổ bộ môn (đào tạo đầy đủ các bậc từ kỹ sư, thạc sĩ đến tiến sĩ) và mô hình phòng thí nghiệm (triển khai các nghiên cứu khoa học với các thiết bị hiện đại), thu hút hàng chục học viên cao học và nghiên cứu sinh từ khắp mọi miền của đất nước và cả ở nước ngoài đến trao đổi, sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu và học tập.

GS Nguyễn Đình Đức được mời trình bày báo cáo tại phiên toàn thể của Hội nghị quốc tế – tổ chức tại Hàn Quốc, 2017. Ảnh: NVCC

Đánh giá về sự phát triển của Phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu tiên tiến (ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội, PGS TS Nguyễn Việt Hà, Hiệu trưởng ĐH Công nghệ cho biết: Phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu tiên tiến (PTN) triển khai các hướng nghiên cứu hiện đại, có tính liên ngành giữa cơ học, khoa học vật liệu và môi trường và các lĩnh vực khác, bắt nhịp với xu hướng hiện đại và liên ngành của công nghiệp 4.0. Kết quả nghiên cứu của Phòng thí nghiệm đã công bố trên nhiều tạp chí quốc tế có uy tín, có chỉ số trích dẫn cao. Đồng thời đón tiếp nhiều chuyên gia, nhà khoa học có uy tín của nước ngoài đến trao đổi và hợp tác, phối hợp tổ chức nhiều hội thảo quốc tế cũng như có hợp tác chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp để đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn. Năm 2016, Phòng thí nghiệm đã được Cục sở sữu trí tuệ cấp Bằng Giải pháp hữu ích.

“Những kết quả của PTN đạt được có vai trò dẫn dắt rất quan trọng của GS. TSKH Nguyễn Đình Đức. GS Nguyễn Đình Đức là một trong những nhà khoa học đầu ngành, vừa có chuyên môn chuyên sâu, vừa tâm huyết, đồng thời có các mối quan hệ hợp tác hiệu quả để xây dựng nhóm nghiên cứu và phát triển Phòng thí nghiệm. Sự thành công của PTN vừa là điểm sáng về nghiên cứu vừa là động lực thúc đẩy và có tác động tích cực đến hoạt động nghiên cứu chung của Trường Đại học Công nghệ”, PGS TS Nguyễn Việt Hà chia sẻ.

Những nỗ lực không ngừng nghỉ của GS Nguyễn Đình Đức trong nghiên cứu, ứng dụng cũng như trong đào tạo nhân tài cho thấy vai trò quan trọng của việc gắn kết đào tạo với nghiên cứu và hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại học để giải quyết các vấn đề thực tiễn của Việt Nam và vươn tầm ra thế giới. Những trí thức trẻ được đào tạo bài bản và trưởng thành trong các phòng thí nghiệm “made in Vietnam” 100% với tầm vóc và kết quả nghiên cứu như vậy sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Những phòng thí nghiệm và nhóm nghiên cứu như của GS Nguyễn Đình Đức và các học trò – thành tài vươn lên từ khó khăn, bằng nội lực chính là những tấm gương, điểm sáng tiêu biểu cho thành công của giáo dục đại học Việt Nam.

Lê Vân/Báo Tin tức

Den hochschulen kommt in der bildung eine besondere bedeutung zu, denn studierende sind bedeutsame entscheiderinnen und Sie konnen dies ausprobieren entscheider sowie gestalterinnen und gestalter unserer gesellschaft von morgen.

microsoft project 2019 kaufen

Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ chuyên ngành Cơ kỹ thuật của nghiên cứu sinh Phạm Hồng Công

Sáng ngày 22/05, tại Trường Đại học Công nghệ – Đại học Quốc gia Hà Nội đã diễn ra Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ chuyên ngành Cơ kỹ thuật của nghiên cứu sinh Phạm Hồng Công (công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) với đề tài “Phân tích phi tuyến tĩnh và động lực học của tấm chữ nhật FGM trên nền đàn hồi”. Luận án được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức.

Tham dự lễ bảo vệ có PGS.TS. Nguyễn Việt Hà – Hiệu trưởng Nhà trường; PGS.TS. Nguyễn Phương Thái – Trưởng phòng Đào tạo, PGS.TS Đặng Thế Ba, Phó Chủ nhiệm Khoa Cơ Kỹ thuật và Tự động hóa, tập thể Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, PTN Vật liệu và Kết cấu tiên tiến cùng các học viên và nghiên cứu sinh nhóm nghiên cứu Vật liệu và kết cấu tiên tiến.

Hội đồng cấp ĐHQG chấm luận án tiến sĩ gồm GS.TS. Trần Ích Thịnh –Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng; TS. Nguyễn Thị Phương – Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải, Thư ký Hội đồng; Các phản biện gồm PGS.TS. Khúc Văn Phú – Học viện Hậu cầu, PGS.TS. Nguyễn Việt Khoa – Viện Cơ học (Viện Hàn lâm KH&CN VN), TS. Đinh Khắc Minh – Viện Công nghệ tàu thủy Việt Nam; Các ủy viên gồm PGS.TS. Đào Như Mai – Viện Cơ học (Viện HL KH&CN Việt Nam); PGS.TS. Phạm Hoàng Anh – Trường Đại học Xây dựng Hà Nội.

NCS Phạm Hồng Công trình bày luận án trước hội đồng

Tại lễ bảo vệ, NCS Phạm Hồng Công đã trình bày mục tiêu của luận án giúp nghiên cứu ổn định tĩnh phi tuyến bằng việc xác định các tải tới hạn và ứng xử sau vồng của kết cấu tấm ES-FGM, chịu 3 kiểu đặt tải. phân tích động lực học để xây dựng các phương trình chủ đạo và phương trình giải bằng cách tiếp cận giải tích để tìm các đáp ứng động lực. Lập trình khảo sát bằng số ảnh hưởng của các tham số như tính chất vật liệu, gân gia cường, nền đàn hồi…

Luận án đã đề xuất công thức tính sự thay đổi các tham số hình học của gân gia cường theo sự biến thiên nhiệt độ môi trường chứa tấm và xây dựng công thức tổng quát để tính các thành phần lực và mô mem của kết cấu tấm FGM có gân gia cường. Thiết lập các phương trình cơ bản của bài toán phân tích phi tuyến tĩnh và động lực học của tấm FGM. Xây dựng các phương trình cơ bản và phương trình chủ đạo cho bài toán phân tích động lực hoc của tấm FGM không hoàn hảo.

Đại diện hội đồng, GS.TS. Trần Ích Thịnh thông báo kết luận hội đồng về luận án của nghiên cứu sinh

Được GS Nguyễn Đình Đức dìu dắt tham gia nghiên cứu khoa học ngay từ năm thứ 2, đến nay, NCS đã công bố 33 bài báo, trong đó có 22 bài trên tạp chí quốc tế ISI (SCI, SCIE), khẳng định sự thành công và nỗ lực vượt bậc của NCS Phạm Hồng Công nói riêng và của Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức, góp phần khẳng định chất lượng tiến sĩ được đào tạo ở ĐHQGHN.

Với kết quả nghiên cứu và công bố quốc tế xuất sắc, NCS đã được đặc cách bỏ qua quy trình phản biện kín theo Quy chế đào tạo tiến sĩ của ĐHQGHN.

PGS.TS. Nguyễn Phương Thái (bên phải ảnh) tặng hoa chúc mừng NCS

Kết thúc buổi chấm luận án tiến sĩ của NCS Phạm Hồng Công, Hội đồng đã kết luận: Luận án của NCS Phạm Hồng Công đã đạt loại xuất sắc và đề nghị Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét cấp bằng Tiến sĩ cho NCS Phạm Hồng Công.

NCS Phạm Hồng Công gửi lời cảm ơn đến GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức (bên trái ảnh)

NCS Phạm Hồng Công gửi lời cảm ơn đến GS.TS. Trần Ích Thịnh (bên phải ảnh) – đại diện hội đồng cấp ĐHQG chấm luận án tiến sĩ

Tập thể hội đồng và cán bộ hướng dẫn chụp ảnh lưu niệm với NCS Phạm Hồng Công

Buổi bảo vệ luận án kết thúc thành công và NCS Phạm Hồng Công đã tự tin bảo vệ xuất sắc luận án của mình với sự chúc mừng của nhà trường, của tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học, các nhà khoa học, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.

Thành công này đã góp phần khẳng định uy tín và chất lượng đào tạo NCS thông qua mô hình hoạt động của Nhóm nghiên cứu, khẳng định truyền thống đào tạo chất lượng cao, trình độ cao của Trường ĐHCN, ĐHQGHN.

Tuyết Nga (UET-News)

The visual below is also available for free download buy essay look at here now in pdf format from this link.

microsoft project 2016 kaufen

Hội thảo quốc tế về ứng dụng thuật toán tối ưu hóa của bầy ong trong phát triển bền vững IWABA2018 thành công tốt đẹp 

Ngày 20 tháng 4, tại trường Đại học Công Nghệ – ĐHQGHN đã diễn ra hội thảo quốc tế về ứng dụng thuật toán tối ưu hóa bầy ong trong vật liệu, kết cấu tiên tiến và phát triển bền vững (International Workshop on Application of Bees Algorithm in sustainable development – IWABA 2018) . Hội thảo là kết quả của đề tài Newton hợp tác giữa GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – trường Đại học Công Nghệ – Đại học Quốc Gia Hà Nội (ĐHQGHN) với các nhà khoa học của trường Đại học Birmingham -Vương Quốc Anh và trường Đại học Công nghệ Vũ Hán – Trung Quốc dưới sự chủ trì của GS.TSKH Nguyễn Đình Đức. Tham dự hội thảo về phía các đại biểu nước ngoài có các đại biểu đến từ Đại học Công nghệ Vũ Hán như GS. Zude Zhou, GS. Quan Liu, GS. Ping Lou, GS. Wenjun Xu và TS. Wei Meng và các đại biểu đến từ Vương Quốc Anh là TS. Marco Catsellani (University of Birmingham) và GS Michael Packianather (Cardiff University) – đều là những trường đại học lớn hàng đầu, có thứ hạng cao của Trung Quốc, Vương quốc Anh và trên thế giới. Về phía ĐHQGHN có sự tham dự của TS Lê Tuấn Anh Phó Trưởng ban Hợp tác phát triển, đại diện Trường Đại học Công Nghệ có sự tham dự của PGS. TS. Chử Đức Trình – Phó Hiệu trưởng nhà trường, TS. Phạm Minh Triển – Phó Trưởng phòng khoa học công nghệ và hợp tác phát triển. Ngoài ra, hội thảo còn có sự tham dự đông đảo của các đại biểu, các nhà khoa học đến từ ĐH công nghệ, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Việt Nhật, ĐH Xây dựng, ĐH Giao thông, ĐH Công nghệ giao thông vận tải, Học Viện Kỹ thuật Quân Sự, Học viện Hậu cần, ĐH Nguyễn Tất Thành, Viện Hàn lâm KHCN Việt nam, cũng như đông đảo các NCS, học viên cao học, sinh viên từ Trường Đại học Công Nghệ và Trường Đại học Việt Nhật – ĐHQGHN.

Thuật toán được đề xuất lần đầu năm 2007 bới nhà khoa học nổi tiếng GS Duc T Pham – University of Birmingham (Ngôi trường với 11 giải Nobel, và thành phố Birmingham là quê hương của James Watt, người đã phát minh ra động cơ máy hơi nước và mở đầu cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1) xây dựng trên khả năng tối ưu hóa của bầy ong. Thuật toán này được phát triển rộng rãi và hiệu quả trong nhiều lĩnh vực như chế tạo máy, tự động hóa, robotic, tối ưu trong quản lý, quy trình sản xuất,….và cùng với sự ra đời và phát triển thuật toán này đã công bố nhiều bài báo quốc tế, đào tạo được hàng trăm tiến sĩ cho nhiều quốc gia trên thế giới.

Hội thảo IWABA2018 được tổ chức tại ĐHQGHN nhằm tạo ra một diễn đàn quốc tế để trao đổi kết quả và ý tưởng nghiên cứu giữa các nhà khoa học của ĐHQGHN với các đồng nghiệp trên thế giới, chia sẻ các kinh nghiệm trong việc áp dụng thuật toán này để giải quyết các thách thức về kỹ thuật – công nghệ tính toán tối ưu hóa và kiến tạo khả năng hợp tác. Hội thảo này cũng tạo cơ hội và tập hợp các nhà khoa học trẻ, giảng viên trẻ tại ĐHQGHN và của các trường đại học khác ở Hà Nội tham gia nhóm nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Đức để thiết lập nhóm nghiên cứu quốc tế về Deep Learning Technologies (một trong những hướng nghiên cứu hiện đại, mới nhất của cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới hiện nay), sử dụng thuật toán tối ưu hóa của bầy ong, áp dụng cho tối ưu hóa trong lĩnh vực năng lượng mới, phát triển bền vững, trong Machine Learning, Intelligent Optimisation, Swarm Intelligence, vật liệu – kết cấu tiên tiến và Robotic,… cũng như trong các ngành, lĩnh vực khác.

Hội thảo cũng đã thảo luận những cơ hội hợp tác không chỉ trong nghiên cứu, mà còn trong đào tạo, trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh, trao đổi cán bộ giữa ĐH Công nghệ, ĐH Việt Nhật – ĐHQGHN với ĐH Công nghệ Vũ Hán (Trung Quốc), University of Birmingham, Đại học Cardiff (Vương Quốc Anh), góp phần thiết thực thúc đẩy công cuộc đổi mới, hội nhập và tiếp cận trình độ và chuẩn mực của thế giới trong lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ của ĐHQGHN

Một số hình ảnh của Hội nghị

img_4071 img_4112 img_4122 img_5861 img_5879 img_5885

Gov safesearch tell safesearch whether to filter sexually explicit www.essayprofs.com/ content.

visio 2019 kaufen

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đại học Quốc gia Hà Nội – 1/4 thế kỷ bền bỉ với sứ mệnh tiên phong, đổi mới, thắp sáng và đào tạo, bồi dưỡng nhân tài

Năm 1993, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ với sứ mạng là đại học trọng điểm quốc gia – một trung tâm đào tạo chất lượng cao, trình độ cao gắn với nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế làm nòng cột và đầu tàu đổi mới cho hệ thống giáo dục nước nhà.

Mô hình Đại học quốc gia cũng là một đại học tự chủ. Thời điểm đó, đất nước vừa mới bước vào thời kỳ đổi mới. Những khái niệm về tự chủ đại học, chuẩn mực quốc tế còn chưa phổ biến với nền giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, với tầm nhìn xa trông rộng, Đảng và Nhà nước đã nhận ra những hạn chế của các đại học chuyên ngành đang hiện có vốn được xây dựng để phục vụ nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa để thành lập ĐHQGHN với mục đích trở thành đại học hàng đầu của Việt Nam, hội nhập với nền giáo dục đại học hiện đại của thế giới.

Năm 2012, các ĐHQG đã được đưa vào Luật giáo dục đại học. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hai Đại học Quốc gia phát triển.

Từ đó đến nay đã 25 năm trôi qua ( 1/4 thế kỷ) kể từ ngày thành lập, ĐHQGHN đã phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu lớn, luôn khẳng định là đại học hàng đầu của Việt Nam. Những thành công của ĐHQGHN trong lĩnh vực đào tạo cụ thể như sau:

Thứ nhất, trở thành mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, phát huy thế mạnh liên thông, liên kết giữa các đơn vị:

Khi mới thành lập, ĐHQGHN chỉ có 3 trường đại học thành viên là ĐH Tổng hợp, ĐH Sư phạm Hà Nội và ĐH Sư phạm ngoại ngữ. Đến nay ĐHQGHN đã cơ bản hoàn chỉnh cơ cấu đa ngành đa lĩnh vực với 7 trường đại học thành viên, 5 viện nghiên cứu và 5 khoa trực thuộc. Các trường đại học gồm: Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Công nghệ, Trường ĐH Ngoại ngữ, Trường ĐH Kinh tế, Trường ĐH Giáo dục và Trường ĐH Việt Nhật (được thành lập gần đây). Các viện nghiên cứu gồm có: Viện Công nghệ Thông tin, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Viện Tài nguyên và Môi trường, Viện Trần Nhân Tông, Viện Đảm bảo Chất lượng giáo dục. Khoa đào tạo trực thuộc ĐHQGHN gồm: Khoa Luật, Khoa Quốc tế, Khoa Quản trị và Kinh doanh, Khoa các khoa học liên ngành, Khoa Y dược. Với cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực như trên, ĐHQGHN có thế mạnh lớn để tham gia giải quyết những vấn đề khoa học công nghệ trọng điểm, của đất nước trong tất cả các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực khó và quan trọng như: hàng không vũ trụ, xây dựng – giao thông, công nghệ nano, chương trình KHCN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, xây dựng bộ Quốc chí của Việt Nam,…

Thứ hai, ĐHQG đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nhân tài, đào tạo chất lượng, trình độ cao:

ĐHQGHN là cơ sở giáo dục đào tạo từ bậc trung học phổ thông đến tiến sĩ. Ngoài các trường chuyên được thành lập lâu đời với bề dày thành tích được cả nước biết đến như: Trường THPT chuyên KHTN (thuộc trường Đại học KHTN) và Trường THPT chuyên ngoại ngữ (thuộc trường ĐH Ngoại ngữ), mới đâyTrường THPT Khoa học Giáo dục (thuộc Trường ĐH Giáo dục) đã được thành lập. Đặc biệt, Trường THPT chuyên KHTN đã đạt được nhiều thành tích trên đấu trường quốc tế và châu lục, đứng đầu khối các trường chuyên ở Việt Nam với thành tích: đoạt 54 huy chương vàng, 71 huy chương bạc và 65 huy chương đồng trong các kỳ thi Olympic quốc tế; 7 huy chương vàng,14 huy chương bạc và 14 huy chương đồng trong các kỳ thi Olympic châu Á.

Bên các chương trình đào tạo hệ chuẩn, ĐHQGHN đã xây dựng các chương trình đặc biệt để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Lần đầu tiên ở Việt Nam, năm 1997, ĐHQGHN đã xây dựng và triển khai dự án “Đào tạo cử nhân khoa học tài năng” và từ năm 2001, là Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực tài năng”. Bên cạnh truyền thống đào tạo nhân tài ở bậc trung học phổ thông chuyên (với 2 trường chuyên ĐHKHTN và ĐHNN), ĐHQGHN là trường đại học đầu tiên của Việt Nam thực hiện một cách chính quy công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài ở bậc đại học. Mục tiêu của Dự án năm 2001 là khai thác tiềm lực và thế mạnh của ĐHQGHN về cơ sở vật chất và đội ngũ khoa học đầu ngành để tham gia đào tạo các nhà khoa học giỏi thuộc các ngành khoa học cơ bản cốt lõi, các ngành công nghệ cao và kinh tế xã hội mũi nhọn, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là đội ngũ giảng viên các khoa học cơ bản tại các trường đại học, cao đẳng cũng như các nghiên cứu viên, nhà quản lý, chuyển giao công nghệ tài năng tại các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị trong toàn quốc, với đầu vào hệ cử nhân khoa học tài năng là các em đoạt các giải olympic quốc tế, quốc gia và có điểm thi đại học đầu vào xuất sắc.

Năm 2005, ĐHQGHN đã tiến hành tổng kết Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực tài năng”. Từ 1997-2005, đã có 1940 sinh viên, 387 học viên và 156 NCS đã tham gia Với những thành công và bài học kinh nghiệm sau gần 10 năm thí điểm, Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá cao sự mô hình đào tạo tài năng bậc đại học của ĐHQGHN, đồng thời chỉ đạo các bộ ngành liên quan nghiên cứu xây dựng chế độ chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng mô hình bồi dưỡng và đào tạo tài năng, chất lượng cao của ĐHQGHN cho toàn ngành. Đào tạo cử nhân khoa học tài năng tiếp tục được ĐHQGHN duy trì đào tạo đến ngày nay.

Từ năm 2006 trở đi, để tăng cường hội nhập các chuẩn mực quốc tế, trong khi quy mô đào tạo cử nhân tài năng, chất lượng cao còn nhỏ, mức độ “quốc tế hoá” về chương trình, phương pháp đào tạo, ngoại ngữ sử dụng chưa đủ cao, ĐHQGHN bắt đầu triển khai đào tạo các chương trình tiên tiến. Chương trình đào tạo tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, sử dụng toàn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và cấp kinh phí triển khai thực hiện. Đội ngũ giảng viên của Việt Nam và một số giảng viên nước ngoài. Chương trình này chỉ đảm nhận việc phát triển quốc tế hóa một chương trình đào tạo, chưa nhằm mục tiêu phát triển được cả ngành, đơn vị cấp Khoa đạt chuẩn quốc tế.

Chính vì vậy, tiếp sau chương trình tiên tiến, năm 2007, ĐHQGHN bắt đầu triển khai các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế, còn gọi là chương trình nhiệm vụ chiến lược (ban đầu được gọi là chương trình 16-23, vì tập trung lựa chọn được 16 ngành đại học và 23 chuyên ngành sau đại học tham gia Đề án). Mục tiêu của chương trình này là xây dựng và phát triển cả ngành, chuyên ngành đạt chuẩn quốc tế, từ chương trình đào tạo đến đội ngũ, cơ sở vật chất, học liệu, nguồn nhân lực theo các tiêu chí đánh giá xếp hạng nhằm tạo tiền đề và điều kiện để phát triển từng bước từ bộ môn, khoa đến trường đại học thành viên đạt chuẩn quốc tế và được đầu tư, phê duyệt theo từng đề án cho từng ngành/chuyên ngành. Đây là mục tiêu và sách lược quan trọng của ĐHQGHN trong quá trình phát triển, nhằm chọn lọc vun cao, từng bước khả thi nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và sức cạnh tranh, thương hiệu của ĐHQGHN, góp phần đổi mới cơ bản giáo dục đại học Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực và chất lượng quốc tế.

Các chương trình đào tạo của ĐHQGHN hiện nay gồm: Chương trình đào tạo tài năng, Chương trình tiên tiến (tức chương trình đào tạo theo dự án của Bộ Giáo dục nhằm xây dựng các ngành đào tạo chất lượng cao, theo nội dung, chương trình của các đại học danh tiếng trên thế giới), Chương trình chuẩn quốc tế (còn gọi là các chương trình thuộc nhiệm vụ chiến lược, cũng tương tự như chương trình tiên tiến của Bộ nhưng được ĐHQGHN đầu tư); Chương trình chất lượng cao của ĐHQGHN, chất lượng cao theo Thông tư 23 của Bộ giáo dục Đào tạo và các chương trình chuẩn. Các chương trình đặc biệt đều có chuẩn đầu ra cao hơn hệ chuẩn về chuyên môn và ngoại ngữ. Ví dụ với chương trình chuẩn ngoại ngữ tiếng Anh đầu ra B1, các chương trình chất lượng cao – B2, chương trình tài năng, tiên tiến – chuẩn C1.

Bên cạnh đó, ĐHQGHN còn có cơ chế liên thông và sử dụng chung cán bộ cơ hữu trong toàn đại học. Do đó, các chương trình đạo tạo cũng rất phong phú và đa dạng. Năm 1993, ĐHQGHN chỉ có vài chục chương trình đào tạo, đến nay đã có 136 chương trình đào tạo đại học, 144 chương trình đào tạo thạc sĩ và 112 chương trình đào tạo tiến sĩ.

Trong vòng 25 năm xây dựng và phát triển, ĐHQGHN đã cấp 195.000 bằng đại học, 32.227 bằng thạc sĩ và 1632 bằng tiến sĩ. Quy mô đào tạo hiện nay của ĐHQGHN là 25.524 sinh viên, 6.279 học viên cao học và 1442 nghiên cứu sinh. Trong vòng 25 năm qua, số sinh viên đã tốt nghiệp các chương trình đặc biệt (tài năng, tiên tiến, chuẩn quốc tế, chất lượng cao) là 5002 (chiếm 2,5% tổng số bằng đại học đã cấp), và hiện đang đào tạo 4277 em các chương trình đặc biệt (chiếm tỷ lệ 16,73% tổng quy mô đào tạo đại học hiện nay ở ĐHQGHN).

Đứng trước những yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. ĐHQGHN đã triển khai Đề án đổi mới đào tạo trình độ tiến sĩ tại ĐHQGHN và đã ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới (2017). Đây là bước đột phá mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo. Quy chế mới yêu cầu nâng cao chuẩn đầu ra về chuyên môn và ngoại ngữ của NCS, nâng cao chuẩn về công bố quốc tế và chất lượng của đội ngũ giảng viên hướng dẫn NCS cũng như đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo, giảng dạy bậc tiến sĩ; yêu cầu gắn hoạt động làm luận án của NCS với hoạt động của bộ môn/PTN; với việc tham gia các đề tài nghiên cứu; hướng dẫn thực hành, thực tập; hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp và các seminar khoa học của đơn vị chuyên môn; trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao nhất cho cán bộ hướng dẫn và bộ môn trong quá trình đào tạo NCS. Đồng thời, Quy chế cũng đặc cách bỏ quy quy trình phản biện kín với các NCS có thành tích nghiên cứu xuất sắc, công bố được nhiều bài báo trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Với Quy chế này, ĐHQGHN thực hiện đào tạo tiến sĩ với yêu cầu về chuẩn đầu ra, cũng như theo quy trình và chuẩn mực tổ chức và quản lý đào tạo như của các trường đại học tiên tiến trên thế giới.

Thứ ba, ĐHQGHN luôn đi tiên phong đổi mới nhiều lĩnh vực trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam:

Không chỉ tiên phong trong việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài thông qua các chương trình đào tạo đặc biệt như đã nói tới ở trên, ĐHQGHN cũng tiên phong trong cả nước xác định phát triển theo mô hình đại học định hướng nghiên cứu, gắn đào tạo với nghiên cứu, với việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh.

Với triết lý đào tạo thông qua nghiên cứu để đảm bảo chất lượng và nghiên cứu để tiếp cận trình độ của thế giới, đào tạo trình độ cao, năm 2004, tại phiên họp lần thứ X Hội đồng Khoa học và Đào tạo của ĐHQGHN đã xác định các tiêu chí cơ bản của đại học nghiên cứu, như chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu; tỷ lệ sinh viên/giảng viên; tỷ lệ đào tạo sau đại học/đại học; số lượng, chất lượng và lượt trích dẫn của các công bố quốc tế; các phát minh, sang chế; giải thưởng KHCN,….và từ đó định hướng cho các hoạt động của nhà trường. Việc tiên phong mở rộng quy mô đào tạo, theo hướng nâng cao tỷ lệ đào tạo sau đại học/đại học cũng như đầu tư xây dựng các nhóm nghiên cứu chính là hai trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược này.

ĐHQGHN cũng tiên phong mở các ngành mới, ngành/chuyên ngành thí điểm chưa có trong danh mục mã ngành đào tạo của Nhà nước, như công nghệ nano, công nghệ hàng không vũ trụ, an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu,…Đến nay một số chương trình thí điểm của ĐHQGHN đã được đưa vào danh mục đào tạo của Nhà nước như các chương trình đào tạo ngành Hóa dược, Kinh tế phát triển, Luật kinh doanh (bậc đại học), Ngôn ngữ Nhật (bậc thạc sĩ), Đo lường Đánh giá trong giáo dục (bậc thạc sĩ và tiến sĩ). Hiện nay ĐHQGHN đang đào tạo 27 chương trình mới thí điểm (gồm 8 ngành cử nhân, 16 chuyên ngành thạc sĩ, 3 chuyên ngành tiến sĩ). Đây là những đặc sản trong đào tạo của ĐHQGHN.

Với tầm nhìn xa, tổng hợp, bao quát, , ngay từ năm 1995, lãnh đạo ĐHQGHN đã thành lập Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển giáo dục (tiền thân của Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục, Trung tâm khảo thí và Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục của ĐHQGHN ngày nay). Những đóng góp của Trung tâm này về các tiêu chí đảm bảo chất lượng giáo dục, về xếp hạng đại học, các năng lực phẩm chất cần có để dự tuyển vào đại học để xây dựng bài thi chuẩn hóa đánh giá năng lực, cũng như mở ngành và đào tạo đầu tiên trong cả nước thạc sĩ và tiến sĩ về đo lường đánh giá trong giáo dục, cũng như những thành tựu khác đã đạt được trong 25 năm qua trong lĩnh vực khảo thí, kiểm định và đảm bảo chất lượng giáo dục của Trung tâm/Viện một lần nữa chứng minh quyết định hết sức đúng đắn của lãnh đạo ĐHQGHN và khẳng định vị trí, vai trò tiên phong của ĐHQGHN trong đo lường đánh giá, đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục ở Việt Nam, tiến dần ra khu vực và thế giới.

Bên cạnh đó, ĐHQGHN đã đi đầu trong đổi mới tuyển sinh đại học theo đánh giá năng lực ; tiên phong trong việc xây dựng bài thi chuẩn hóa đánh giá năng lực và cũng tiên phong áp dụng thành công việc triển khai đổi mới tuyển sinh theo hình thức sử dụng bài thi đánh giá năng lực ở ĐHQGHN. Với phổ kiến thức vừa rộng lại vừa sâu, phong phú, kết quả thi nhanh, việc chấm thi tự động bằng máy khách quan, trung thực, và có thể tổ chức cho thí sinh chủ động đăng ký thi nhiều lần trong năm, đã được dự luận xã hội đồng tình ủng hộ và đánh giá rất cao. Tuyển sinh theo Đánh giá năng lực của ĐHQGHN như luồng gió mới làm mát dịu những căng thẳng của các kỳ thi đại học theo 3 chung cứ mỗi năm vào hè tháng 6. Nhiều trường đại học khác đã sử dụng kết quả thi đánh giá năng lực của ĐHQGHN để tuyển sinh. Đây cũng là những tiền đề, kinh nghiệm và bài học quan trọng để triển khai các bài thi trắc nghiệm tốt nghiệp THPT, để tuyển sinh đại học sau này.

ĐHQGHN cũng là một trong những đơn vị tiên phong triển khai đào tạo theo tín chỉ thành công ở Việt nam. Sau một số năm nghiên cứu, tìm hiểu phương thức tổ chức và quản lý đào tạo theo mô hình tín chỉ của nước ngoài, từ năm 2006, ĐHQGHN bắt đầu triển khai áp dụng các yếu tố tích cực của phương thức đào tạo theo tín chỉ, đó là: chuyển đổi chương trình; xây dựng đề cương môn học; áp dụng phương pháp dạy – học và kiểm tra đánh giá theo tín chỉ và từ 2010; đến nay đã áp dụng hoàn toàn và triệt để phương thức đào tạo theo tín chỉ. Các chương trình đào tạo được thiết kế theo chuẩn đầu ra, với các khối kiến thức chung được giảng dạy thống nhất trong toàn ĐHQGHN. Thành công này đã tạo điều kiện cho việc phát huy thế mạnh liên thông, liên kết trong ĐHQGHN, mô hình a+b (như mô hình đào tạo cử nhân sư phạm, bác sỹ đa khoa,…), đặc biệt là trong việc xây dựng các chương trình đào tạo mới liên ngành, liên đơn vị; trong việc triển khai tổ chức giảng dạy bằng kép (song bằng) thành công. Bên cạnh đó, cũng nhờ tích lũy tín chỉ, sinh viên có thể chủ động lựa chọn tích lũy các học phần theo kế hoạch và thời gian của cá nhân, nhờ vậy đến nay đã có gần 3000 sinh viên được cấp bằng kép (bằng chính quy thứ 2 trong thời gian học tập tại ĐHQGHN) và 421 em tốt nghiệp đại học sớm so với quy định từ 1 đến 2 học kỳ.

Một sự đổi mới khác đối với 2 trường chuyên (Trường THPT chuyên KHTN và Trường THPT chuyên ngoại ngữ), để lựa chọn được nhiều học sinh ưu tú vào học theo chương trình đại học, năm 2014, ĐHQGHN đã tiên phong nghiên cứu và ban hành quy chế đặc thù cho học sinh chuyên, ban hành các tiêu chí và quy định xét tuyển thẳng vào các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc của ĐHQGHN những học sinh xuất sắc. Dó đó, đã thu hút được nguồn học sinh giỏi vào học các ngành khoa học cơ bản để nối tiếp truyền thống và phát huy thế mạnh của ĐHQGHN.

ĐHQGHN cũng là đơn vị tiên phong trong các cơ sở giáo dục đào tạo của cả nước rà soát và nghiên cứu, xây dựng bản quy hoạch các ngành nghề đào tạo (2014) và phân tầng các chương trình đào tạo (2015). Đây là kim chỉ nam, là kế hoạch và chiến lược hết sức quan trọng định hướng cho hoạt động đào tạo của ĐHQGHN và các đơn vị đào tạo của ĐHQGHN trong giai đoạn mới.

Thứ tư, ĐHQG kiên trì và giữ vững chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, hội nhập với quốc tế:

Các chương trình đào tạo của ĐHQGHN được xây dựng trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo của các trường đại học tiên tiến trên thế giới. ĐHQGHN thực hiện triết lý đào tạo thông qua nghiên cứu, xây dựng các nhóm nghiên cứu (NNC) để đào tạo trình độ cao và phát triển tiềm lực KHCN. Đến nay, ở ĐHQGHN có hàng trăm NNC lớn nhỏ, trong đó có 27 NNC đã được Giám đốc ĐHQGHN công nhận là NNC mạnh cấp ĐHQGHN. Các NNC này đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở các ngành đào tạo mới, bộ môn/PTN mới của ĐHQGHN trong những năm qua.

Cũng nhờ đào tạo thông qua nghiên cứu, các em sinh viên, học viên cao học, NCS được tham gia hoạt động trong môi trường các NNC, thắp sáng tài năng. Đến nay, đã có nhiều em sinh viên năm cuối và trên trên 80% NCS trong lĩnh vực KHTN – Công nghệ của ĐHQGHN có công bố trên các tạp chí quốc tế ISI. Không ít NCS được đào tạo trong nước, ở ĐHQGHN có số lượng và chất lượng các công bố quốc tế cao hơn so với các NCS được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài.

Nhiều em học sinh vào ĐHQGHN đã được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình, tâm huyết của các giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành, những người thầy tâm huyết, có môi trường nghiên cứu, học tập tốt và đã được phát huy năng lực và tỏa sáng, đạt được thành tích xuất sắc trong học tập và nghiên cứu. Nhiều cựu sinh viên ưu tú của ĐHQGHN đã trở thành các nhà lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học, quản lý có tên tuổi. 1/4 thế kỷ qua, ĐHQGHN đã góp phần hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo nhân tài chất lượng cao, trình độ cao cho đất nước.

Thứ năm, ĐHQG tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nghề đào tạo, đáp ứng yêu cầu của đất nước, của thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0:

Việc phát triển các ngành mới có tính liên ngành, mũi nhọn những lĩnh vực kỹ thuật công nghệ mà xã hội có nhu cầu cao về nguồn nhân lực, cũng như đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0 đang được ĐHQGHN chú trọng đặc biệt và có sự đột phá, trong đó phải kể đến các chương trình đào tạo mới, tiên phong như Kĩ thuật năng lượng, Kỹ thuật môi trường, Kỹ thuật hạ tầng, Công nghệ nano, Công nghệ kỹ thuật Xây dựng – Giao thông, Công nghệ hàng không vũ trụ, Robotic, An toàn thông tin, Quản trị các tổ chức tài chính, Kinh tế biển, Biến đổi khí hậu,…

Với trên 400 chương trình đào tạo ở các bậc đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, từ lúc chỉ hoàn toàn các ngành khoa học cơ bản, sau 25 năm xây dựng và phát triển, đến nay ĐHQGHN đã đạt cơ cấu ngành nghề đào tạo như sau: khoa học tự nhiên, y dược 25%; khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế, ngoại ngữ, luật, giáo dục 45%; công nghệ – kỹ thuật 15%; liên ngành và thí điểm 15%. ĐHQGHN đã tích cực chuyển đổi cơ cấu ngành nghề từ KHCB sang gắn với kỹ thuật, công nghệ và thực tiễn. Nhờ vậy, ngành nghề đào tạo của ĐHQGHN nhanh chóng tiếp cận hội nhập với thế giới, gắn kết chặt chẽ với công nghiệp và doanh nghiệp, cũng như tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm ngày càng cao.

Tóm lại, hoạt động đào tạo đã có những đóng góp quan trọng và xứng đáng vào sự phát triển và lớn mạnh của ĐHQGHN, đóng góp tich cực và hiệu quả vào những đổi mới của ngành giáo dục đại học như đào tạo tài năng, chất lượng cao; tổ chức quản lý đào tạo theo tín chỉ; phát triển theo mô hình đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện đào tạo qua nghiên cứu và chú trọng xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong trường đại học; đảm bảo chất lượng giáo dục; kiểm định, phân tầng và quy hoạch chương trình đào tạo; đổi mới tuyển sinh theo đánh giá năng lực; tiên phong mở các chương trình đào tạo mới thí điểm và hiện đại, đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, và thực hiện hội nhập với nền giáo dục đại học của thế giới. Thành quả lớn nhất của 25 năm qua là từ chính những học trò của mình, ĐHQGHN đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kế cận trẻ tuổi tài năng, đủ sức gánh vác sứ mệnh lớn lao và vẻ vang của nhà trường.

Qua 1/4 thế kỷ, chúng ta hết sức tự hào về những thành tựu mà các thế hệ lãnh đạo, các thế hệ thầy và trò, các thế hệ cán bộ khoa học đầu ngành, đầu đàn tài năng và tâm huyết, các GS, PGS, TSKH, TS – những trí thức ưu tú của ĐHQGHN và của nước nhà; các thế hệ cán bộ, viên chức, giảng viên, nghiên cứu viên, và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đào tạo đầy trách nhiệm và nhiệt huyết của ĐHQGHN qua các thời kỳ đã đóng góp và đạt được trong 25 năm qua, đồng thời cũng nhận thức đầy đủ những cơ hội, cũng như những thách thức trong tình hình và bối cảnh mới.

Giáo dục đại học đứng trước những thách thức về chất lượng; công ăn việc làm của người học sau khi tốt nghiệp và hội nhập với các chuẩn mực của quốc tế. Chính vì vậy, Bộ Giáo dục Đào tạo đang có những chỉ đạo quyết liệt và giải pháp hữu hiệu để đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học Việt nam. Đảng ủy và Ban Giám đốc ĐHQGHN đã chỉ đạo trong thời gian tới tập trung hoàn thiện mô hình tự chủ đại học, trong hoạt động đào tạo tập trung vào nâng cao và mở rộng quy mô đào tạo các chương trình chất lượng cao; ưu tiên và tập trung nguồn lực cho đào tạo tiến sĩ, thu hút nhân tài, phát triển các nhóm nghiên cứu để tạo nguồn nhân lực kế cận và thúc đẩy công bố quốc tế, qua đó duy trì và nâng cao xếp hạng đại học; phát huy thế mạnh thống nhất và liên thông liên kết trong toàn ĐHQGHN, nâng cao khả năng thực hành, thực tập, thực tế và qua đó nâng cao chất lượng đào tạo và cơ hội việc làm cho sinh viên.

Nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập (1993-2018), chúc ĐHQGHN ngày càng phát triển, luôn xứng đáng là đầu tàu đổi mới, là đại học hàng đầu, nòng cột trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, hội nhập ngày càng mạnh mẽ và luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ giáo dục Đào tạo và các bộ ngành và toàn xã hội để phát huy tối đa nội lực và thu hút tối đa các nguồn lực, sớm có tên trong bảng xếp hạng đại học có thứ hạng cao của khu vực và thế giới, đáp ứng mong mỏi của xã hội và nhân dân cả nước.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐHQGHN
Trưởng ban Đào tạo, ĐHQGHN

visio 2016 kaufen

Nghề nghiệp và cơ hội việc làm cho sinh viên ngành Công nghệ Kỹ thuật xây dựng của Trường Đại học Công nghệ

Xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng cơ sở cho mỗi quốc gia là lĩnh vực quan trọng, nhiệm vụ này phải đi trước, hoàn thiện trước để hỗ trợ, kích thích các lĩnh vực hoạt động công nghiệp, kinh tế xã hội hoạt động và phát triển thuận lợi hơn. Tất cả các nước phát triển đều có hệ thống hạ tầng cơ sở về giao thông, xây dựng, công nghiệp, thủy lợi … với quy mô, hoàn thiện khả năng khai thác cao. Ở các nước tư bản phát triển như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản thời kỳ những năm thập kỷ 70 và 80, cùng với tốc độ phát triển kinh tế vũ bão thì đã bắt đầu có nhu cầu rất lớn về xây dựng, đô thị hóa và phát triển hệ thống công trình hạ tầng cơ sở. Trong khối lượng xây dựng khổng lồ đó đã nảy sinh rất nhiều các vấn đề liên quan đến thực tiễn xây dựng như vật liệu mới có tính năng, cường độ cao hơn, các công nghệ mới có năng lực vận hành tốt hơn, các quy trình thiết kế mới vừa đảm bảo tính an toàn nhưng đồng thời đem lại các hiệu quả kinh tế kỹ thuật. Để đáp ứng được các đòi hỏi như vậy thì đội ngũ về nhân lực cũng cần phải được chuẩn bị, đào tạo về mọi mặt và ở các cấp độ khác nhau.

Ở Việt nam, sau gần 30 năm kể từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển đòi hỏi phải đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng như xa lộ, đường sắt, cảng biển, sân bay và đầu tư vào hỗn hợp năng lượng hiệu quả như các nhà máy thủy điện, chạy than và khí đốt… Trong thập niên vừa qua, tổng đầu tư hạ tầng ở Việt Nam đã chiếm bình quân hơn 10% GDP, vượt qua khỏi các nền kinh tế Đông Á vốn nổi tiếng về mức đầu tư cơ sở hạ tầng cao. Kết quả từ tỉ lệ đầu tư cao của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quy mô đô thị hóa, phát triển mạnh cơ sở hạ tầng, góp phần vào sự thành công về tăng trưởng và phát triển của đất nước.

Trong 2 thập kỷ đã qua, Việt Nam có rất nhiều những công trình xây dựng và giao thông hiện đại phục vụ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu sử dụng của người dân. Ở khu vực phía bắc các công trình xây dựng và giao thông tiêu biểu như hệ thống đường Cao tốc Hà Nội – Lào Cai, Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Đại lộ Thăng Long, Đường Vành đai 3 Hà Nội, Cảng hàng không quốc tế Nội Bài… Các hệ thống giao thông mới này thúc đẩy sự phát triển kinh tế của toàn khu vực cũng như nâng cao sự tiện lợi trong lưu thông hàng hóa và nhu cầu đi lại của người dân giữa Thủ Đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tại khu vực phía Nam có rất nhiều hệ thống đường cao tốc tương tự như TPHCM-Long Thành – Dầu Giây, TPHCM – Trung Lương… Một số công trình lớn hiện đang thi công như dự án đường sắt đô thị Hà Nội – TPHCM. Bên cạnh đó hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước cũng được đầu tư và phát triển mạnh mẽ tại các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và TPHCM, cũng như nhiều đập, hồ trữ nước phục vụ nông nghiệp, phòng chống hạn hán và phát điện trong cả nước.

Ngoài ra, các đô thị lớn của Việt Nam đặc biệt là Hà Nội và TPHCM đang phải đối mặt với vấn đề dân số tập trung quá đông. Tỷ lệ dân số tập trung cao dẫn đến đô thị trên thế giới hiện đối mặt với rất nhiều vấn đề như : vấn đề giao thông, vấn đề môi trường, vấn đề rác thải, vấn đề ô nhiễm nguồn nước, vấn đề xuống cấp của cơ sở hạ tầng, dễ bị tổn thương trước thiên tai và thảm họa (cháy nhà, bão, lũ lụt…)… Do đó việc phát triển và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng và giao thông để duy trì và phát triển đô thị bền vững là nhu cầu cấp bách.

Năm 2017, trường Đại học Công nghệ đã tuyển sinh đào tạo ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông (mã ngành thí điểm). Năm 2018, ngành này đã có trong danh mục đào tạo của Bộ, tách ra thành ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng (mã ngành: 7510103) và Công nghệ kỹ thuật giao thông (mã ngành: 7510104) và năm 2018 tuyển sinh ngành Công nghệ kỹ thuật Xây dựng.

Chương trình đào tạo cung cấp nền tảng kiến thức của cả kỹ thuật và công nghệ xây dựng, được cập nhật so với chương trình đào tạo của các trường đại học danh tiếng trên thế giới trong lĩnh vực Civil Engineering như University of Tokyo (Nhật bản) và University of Melbourne (Úc).

GS Nguyễn Đình Đức, GS Hironori Kato và các học trò  tại công trường thi công cầu dây văng Bình Khánh (Sông Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh)

Chương trình cũng phát huy thế mạnh liên ngành của trường Đại học Công nghệ như  Công nghệ Thông tin, Điện tử và Vi cơ điện tử, Cơ học Kỹ thuật, cũng như môi trường và phát triển bền vững của các cơ sở khác trong toàn ĐHQGHN trong chương trình đào tạo, đặc biệt thể hiện trong các môn học mang tínhthời sự như: Thiết kế xây dựng các công trình đặc biệt, Thiết kế hệ thống cơ – điện trong xây dựng, Phát triển bền vững trong xây dựng – giao thông, Năng lượng mới và tiết kiệm năng lượng trong xây dựng, Quản lý và phát triển dự án, Duy tu và bảo trì công trình, …

Chương trình có sự tham gia xây dựng chương trình, tham gia giảng dạy của các chuyên gia từ tất cả các đại học lớn, đầu ngành trong lĩnh vực này trên địa bàn Thủ đô: Trường ĐH Giao thông Vận tải, trường ĐH Xây dựng, trường ĐH Thủy lợi, trường ĐH Việt Nhật và các doanh nghiệp Việt Nam, nước ngoài trong lĩnh vực này; Tận dụng được quan hệ hợp tác chặt chẽ với chương trình thạc sỹ kỹ thuật của trường Đại học Việt Nhật và các doanh nghiệp của Nhật bản tại Việt nam trong lĩnh vực này.

Đặc sắc của chương trình là có những học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức về công nghệ kỹ thuật xây dựng gắn với phát triển bền vững, quy hoạch vùng và lãnh thổ, thích ứng với biến đổi khí hậu, công trình xanh, phong thủy.

GS Nguyễn Đình Đức và các học trò ngành kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật tại hầm Metro, bên máy khoan đào TBM  đangthi công đường hầm Metro  (Metro Bến Thành – Suối Tiên, TP Hồ Chí Minh)

Các hướng đào tạo và nghiên cứu chính của nhà trường trong lĩnh vực này gồm:

  • Vật liệu và kết cấu tiên tiến ứng dụng trong xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Xây dựng dân dụng và công nghiệp
  • Thiết kế, thi công, xây dựng nhà cao tầng
  • Thiết kế xây dựng, thi công công trình ngầm và các công trình đăc biệt
  • Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật mới trong xây dựng, giao thông và hạ tầng thích hợp với biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan
  • Thiết kế, thi công đường ô tô
  • Thiết kế, thi công cầu
  • Quy hoạch đô thị
  • Kinh tế xây dựng và quản lý dự án
  • Duy tu, bảo dưỡng công trình xây dựng, giao thông và hạ tầng
  • Kiến trúc và Phong thủy trong xây dựng

Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ PGS.TS Nguyễn Việt Hà và TS Hà Minh, Tổng Giám đốc Tổng Công ty CONICO ký kết hợp tác trong lĩnh vực xây dựng

Đặc biệt, ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của nhà trường có nhóm nghiên cứu mạnh do GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chủ trì, thu hút được nhiều tiến sĩ trẻ và các NCS, sinh viên của nhiều trường đại học trong nước và quốc tế tham gia, có nhiều kết quả nghiên cứu xuất sắc được công bố trên các tạp chí khoa học ISI có uy tín của quốc tế và đã được Giám đốc ĐHQGHN ký quyết định công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh của ĐHQGHN.

Ngành công nghệ – kỹ thuật xây dựng – giao thông của nhà trường đã có hợp tác về nghiên cứu và đào tạo với cáccơ quan khoa học và ứng dụng hàng đầu của quốc gia, quốc tế để triển khai các hướngnghiên cứu như: Hợp tác với Viện Khoa học công nghệ xây dựng Việt Nam; Tổng  Công ty CONICO để triển khai các hướng nghiên cứu về tiêu chuẩn kỹ thuật công trình, các tiêu chuẩn công trình xanh; các công nghệ thiết kế hiện đại nhất về nhà cao tầng. Hợp tác với FACON và Shimizu (Nhật Bản) đào tạo và nghiên cứu về công nghệ – kỹ thuật các công trình ngầm, các công trình đặc biệt, các kỹ thuật chống xói lở đất và cấp thoát nước ngầm. Hợp tác với ĐH Công nghệ Melbourne, ĐH Birmingham nghiên cứu về tối ưu hóa và robotic, về chế tạo vật liệu mới composite. Hợp tác với Khoa Xây dựng ĐH Tổng hợp Melbourne (Úc) về các vật liệu đặc biệt chịu tải trọng nổ. Hợp tác với ĐH Tsukuba  (Nhật Bản) về dự báo mưa, nghiên cứu hiện tượng đảo nhiệt đô thị và dự báo các điều kiện thời tiết cực đoan ứng phó với biến đổi khí hậu. Hợp tác với Khoa Xây dựng và Kiến trúc ĐH Tokyo (Nhật Bản), Viện Công nghệ Tokyo (Nhật Bản), ĐH Yonsei, ĐH Sejong (Hàn Quốc),… cũng như các đại học lớn của Việt Namnhư Trường ĐH Xây dựng Hà Nội, ĐH Giao thông, ĐH Thủy Lợi, Tổng cục khí tượng Thủy văn quốc gia để triển khai giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật xây dựng, giao thông và kỹ thuật hạ tầng.

Bên cạnh đó, chương trình tận dụng được PTN kỹ thuật hạ tầng của Đại học Việt Nhật, Phòng Thực hành của Khoa Cơ kỹ thuật, các PTN của các đối tác lớn trên địa bàn Hà Nội.

Chương trình chú trọng đến các đồ án và các kỳ thực tập: 2 Đồ án bắt buộc (một đồ án sau khi kết thúc các môn cơ sở của ngành, đồ án 2 sau khi sinh viên đi vào các chuyên ngành), với 3 đợt thực tập: Thực tập tìm hiểu về nghề nghiệp, Thực tập kỹ thuật và Thực tập tốt nghiệp, cung cấp cho sinh viên kỹ năng học đi đôi với hành, thông qua các bài tập và các bài tính toán thiết kế trong đồ án và kỳ thực tập này. và tạo cơ hội cho sinh viên có điều kiện cho sinh viên thực hành thực tập ở các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, cũng như trao đổi sinh viên với các trường đại học của nước ngoài trong quá trình học tập.

Nhà trường cam kết sinh viên tốt nghiệp ngành này ở Đại học Công nghệ ra trường có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực Công nghệ – Kỹ thuật Xây dựng.

                                                                                                                                     GS.TSKH Nguyễn Đình Đức

                                                                                                                     Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông

.

360 total security kaufen