Nhà khoa học số 1 Việt Nam: Người thầy phải có tâm và có tầm

Trong gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo sư Nguyễn Đình Đức đã công bố tới hơn 300 bài báo khoa học, đào tạo nhiều học trò xuất sắc.

Liên tiếp trong ba năm, từ 2019 đến 2021, giáo sư Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội được Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ xếp hạng trong tốp 100.000 nhà khoa học có chỉ số ảnh hưởng thế giới và đứng đầu trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam trong danh sách này các năm 2020, 2021. Trong lĩnh vực kỹ thuật, ông được xếp vị trí thứ 96 thế giới.

Giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng là một trong số ít những nhà khoa học Việt Nam đã được Tạp chí này vinh danh trong danh sách 100.000 nhà khoa học được xếp hạng có trích dẫn khoa học ảnh hưởng thế giới theo thành tựu trọn đời.

Không có học trò kém

Chia sẻ về sự nghiệp “trồng người” trong không khí cả nước đón chào Ngày hiến chương các nhà giáo Việt Nam 20/11, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho biết với ông, không có học trò kém. Học trò nào cũng ẩn chứa những tiềm năng và chính niềm tin yêu, sự tận tâm và động viên khích lệ của người thầy là động lực khơi dậy, đánh thức tiềm năng sáng tạo của các học trò. Điều đó đòi hỏi người thầy phải thật sự tâm huyết với nghề, hết lòng với học trò.

Gần 40 năm gắn bó với giáo dục đại học cũng là chừng ấy năm giáo sư Nguyễn Đình Đức thực hiện sứ mệnh “trồng người” cao cả của nhà giáo. Với giáo dục đại học, điều đó lại càng đặc biệt hơn khi người thầy sẽ trực tiếp đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Nếu giáo viên phổ thông là những người đặt nền móng tri thức và đạo đức làm người thì giảng viên đại học lại là người đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, những người chuẩn bị bước vào thị trường lao động, trực tiếp xây dựng và kiến thiết đất nước. Vì vậy, người thầy chính là một tấm gương cho sinh viên không chỉ trong với tư cách là nhà giáo mà còn với tư cách một người đồng nghiệp lớn.

Là một người say mê nghiên cứu khoa học và hướng dẫn rất nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh nghiên cứu khoa học, sự tận tụy và tâm huyết, những bài giảng và lòng yêu nghề và khát khao cống hiến của giáo sư Nguyễn Đình Đức đã thắp sáng ngọn lửa đam mê khoa học của lớp lớp học trò. Ông luôn quan niệm người thầy chân chính phải thực sự tâm huyết, không màng danh lợi, khát khao cống hiến.

Từng tốt nghiệp tiến sỹ ở Nga từ khi còn rất trẻ, với ngành nghiên cứu về vật liệu mới composite, có nhiều cơ hội để làm việc ở nước ngoài nhưng ông vẫn quyết định trở về nước. “Nhìn từ tấm gương của các giáo sư lỗi lạc, tôi nhận thấy để thành công được, họ không chỉ có tài năng mà còn có lý tưởng cống hiến cho đất nước. Những điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến cá nhân tôi. Vì vậy, tôi mong muốn những kiến thức mà mình tích lũy sẽ đóng góp được cho đất nước, để xây dựng được đội ngũ, xây dựng được ngành của mình,” giáo sư Nguyễn Đình Đức chia sẻ.

Nha khoa hoc so 1 Viet Nam: Nguoi thay phai co tam va co tam hinh anh 2
Giáo sư Nguyễn Đình Đức (thứ hai từ phải sang) và các giáo sư của Đại học Quốc gia Hà Nội. (Nguồn: Vietnam+)

Vượt qua rất nhiều khó khăn thiếu thốn, từ những ngày đầu còn chưa có phòng làm việc cho nhóm nghiên cứu, nhưng cả thầy và trò vẫn cùng nhau cố gắng nỗ lực. Dưới sự hướng dẫn của thầy, nhiều sinh viên đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, nhiều nghiên cứu sinh có kết quả nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín và không hề thua kém các nghiên cứu sinh được đào tạo bài bản hoàn toàn ở nước ngoài.

Nhiều học trò của ông đã tiếp nối con đường trở thành các nhà giáo, nhà khoa học và có chuyên môn giỏi như phó giáo sư Hoàng Văn Tùng (Đại học Kiến trúc Hà Nội), tiến sỹ Trần Quốc Quân (Đại học Phenikaa), tiến sỹ Phạm Hồng Công (Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam), tiến sỹ Vũ Thị Thùy Anh (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội)…

Hội nhập và sáng tạo

Không chỉ là người thầy tận tâm, giáo sư Nguyễn Đình Đức còn là nhà khoa học với tư tưởng hội nhập quốc tế sâu rộng. Với quan điểm để trở thành nhà giáo, nhà khoa học giỏi, người thầy bên cạnh chữ “tâm” phải có lý tưởng và có tầm nhìn, ông luôn tâm niệm các nhà khoa học Việt Nam phải vươn lên, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế. Giáo dục đại học muốn thành công phải luôn bắt nhịp, hội nhập theo các chuẩn mực và trình độ của quốc tế, cả trong đào tạo và nghiên cứu đồng thời gắn với thực tiễn, phục vụ thiết thực sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Điều đó thể hiện rõ trong hướng trọng tâm nghiên cứu chuyên sâu của ông, đó là các lĩnh vực liên quan đến vật liệu và kết cấu tiên tiến như vật liệu cacrbon-cacrbon siêu bền nhiệt; vật liệu nano; vật liệu mới làm tăng hệ số chuyển đổi năng lượng trong các tấm pin mặt trời; các vật liệu composite có tính năng cơ lý cao sử dụng trong các điều kiện khắc nghiệt và các công trình đặc biệt; các vật liệu tiên tiến đáp ứng yêu cầu lưu trữ thông tin lớn của CMCN 4.0; ứng dụng trí tuệ nhân tạo và machine learning trong tối ưu hóa vật liệu và kết cấu…

Kết quả của những năm tháng miệt mài nghiên cứu là ông đã công bố hơn 300 bài báo, báo cáo khoa học, trong đó có gần 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín; là tác giả của hai bằng phát minh sáng chế, góp phần quan trọng hình thành nên trường phái khoa học về vật liệu và kết cấu tiên tiến ở Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo sư Đức cũng vinh dự đại diện cho các nhà khoa học Việt Nam được mời tham gia hội đồng biên tập quốc tế của 10 tạp chí ISI có uy tín của thế giới.

Với vai trò là người phụ trách quản lý đào tạo của một trong hai đại học lớn nhất cả nước, Đại học Quốc gia Hà Nội, giáo sư Nguyễn Đình Đức cũng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược trong phát triển đại học gắn với nhu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế với nhiều đề xuất táo bạo. Nhận thấy để các phát triển nghiên cứu khoa học một cách bền vững cần phải hình thành các tổ chức, năm 2015, ông đề xuất thành lập Phòng thí nghiệm Vật liệu và Kết cấu tiên tiến trực thuộc Khoa Cơ kỹ thuật và Tự động hóa (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.).

Năm 2016, ông đề xuất mở ngành thạc sỹ kỹ thuật hạ tầng ở Đại học Việt Nhật (Đại học Quốc gia Hà Nội) hợp tác với đối tác chính là Đại học Tổng hợp Tokyo và hơn 10 trường đại học khác của Nhật Bản cùng tham gia đào tạo nguồn nhân lực cao cho đất nước trong lĩnh vực Civil Engineering.

Năm 2018, giáo sư Đức kiến nghị thành lập ngành Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng-Giao thông ở Đại học Công nghệ. Năm 2021, ông cùng với Khoa Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) triển khai hợp tác với Học Viện Hàng không Matxcova, mở ngành đào tạo kỹ sư Tự động hóa và Tin học…

Những ngành học mới đã đáp ứng được nhu cầu của người học cũng như yêu cầu nhân lực của xã hội đồng thời mở rộng lĩnh vực đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Gần 40 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, được vinh danh là nhà khoa học hàng đầu của cả nước, giáo sư Nguyễn Đình Đức cho hay với ông đó là niềm vinh dự, nguồn khích lệ động viên nhưng cũng là trách nhiệm phải xứng đáng với những tôn vinh./.

Hà An (Vietnam+)

Nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài

(Dân trí) – GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho biết, các nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài, trong đó đánh dấu nhiều gương mặt trẻ.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, trưởng Ban Đào tạo – ĐHQGHN đã công bố trên 300 công trình khoa học, trong đó có 200 bài trên các tạp chí quốc tế ISI có uy tín. Hiện nay, GS Đức là Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, tham gia hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế ISI.

Tháng 10/2021, tạp chí PLoS Biology đã công bố danh sách 100.000 nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới theo cơ sở dữ liệu Scopus. Tác giả của bảng xếp hạng này là các giáo sư Jeroen Baas, Kevin Boyack và John P.A. Ioannidis thuộc Đại học Stanford (Mỹ).

Trong bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2021.

Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) tiếp tục đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam, xếp hạng 5949 thế giới, và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering.

Nhân dịp đầu xuân năm mới, phóng viên Dân trí đã có cuộc trò chuyện với GS.TSKH Nguyễn Đình Đức về câu chuyện khoa học, về cơ chế để nền khoa học Việt Nam phát triển xứng tầm.

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức vào top 100.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới (Ảnh: NH).

Đã từng đoạt giải thưởng “Nhân tài đất Việt” về sản phẩm có định hướng ứng dụng

Chúc mừng ông khi vào top 100.000 nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới và đứng thứ 96 thế giới trong lĩnh vực Engineering. Ban tổ chức họ ghi nhận các công trình nghiên cứu của ông ở hướng nào?

– Sau khi nhận được thông tin tôi hoàn toàn bất ngờ vì thực sự làm khoa học không ai nghĩ đến việc để xếp hạng. Những kết quả đánh giá này của thế giới là sự ghi nhận khách quan những đóng góp và kết quả làm việc miệt mài và bền bỉ của tôi trong suốt gần 40 năm qua và nhóm nghiên cứu. Đây là nguồn cổ vũ, động viên và khích lệ rất lớn cho tôi, cho nhóm nghiên cứu và các thế hệ học trò vững tin vào con đường khoa học và những hướng nghiên cứu mà mình đã chọn, tự tin sánh vai với các đồng nghiệp quốc tế, và cũng là niềm vui và tự hào của ĐHQGHN nói riêng và lĩnh vực Engineering của Việt Nam nói chung.

Các công trình khoa học của tôi định hướng nghiên cứu về các vật liệu và kết cấu tiên tiến, thông minh, các vật liệu chức năng và vật liệu nano có cơ lý tính biến đổi, vật liệu auxetic,… Đây là những hướng nghiên cứu hiện đại, có định hướng ứng dụng cao và được cộng đồng khoa học trên thế giới rất quan tâm.

Bảng xếp hạng này không dựa thuần túy vào số lượng được trích dẫn. Vì nếu dựa vào chỉ số này thì của tôi thấp hơn so với nhiều đồng nghiệp khác.

Các tiêu chí dùng để xếp hạng các nhà khoa học gồm tổ hợp (composite score) của các tham số như: chỉ số ảnh hưởng của nhà khoa học trong lĩnh vực và cộng đồng khoa học, tổng số trích dẫn, chỉ số H (H-index), chỉ số đồng tác giả (HM-index), số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất, số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính và tác giả cuối cùng,…

Hiện nay, tôi cũng tham gia hội đồng biên tập của 10 tạp chí quốc tế ISI có uy tín và được mời báo cáo tại phiên toàn thể của nhiều hội thảo quốc gia, quốc tế.

Các công trình nghiên cứu của ông đã giải quyết như thế nào trong thực tế?

– Các nghiên cứu về vật liệu composite siêu bền nhiệt carbon-cacrbon của tôi có định hướng ứng dụng trong việc tính toán thiết kế và đảm bảo an toàn cho thân vỏ động cơ tên lửa. Vật liệu nano composite nhiều pha với các hạt nano được ứng dụng để chống thấm trong đóng tàu bằng composite, chế tạo các vật liệu chống chịu các điều kiện khắc nghiệt cũng như vật liệu làm tăng khả năng chuyển đổi năng lượng từ nhiệt sang điện trong các tấm pin mặt trời.

Vật liệu auxetic để giảm chấn, bảo vệ các kết cấu công trình chịu các tải trọng nổ, mô phỏng các vật liệu mới pentagraphin có khả năng lưu trữ thông tin lớn như não bộ của con người,..

Tôi đã có một bằng phát minh, một bằng sáng chế. Các nghiên cứu của tôi và tập thể các nhà khoa học về hệ thống dẫn đường quán tính phục vụ dẫn đường các phương tiện chuyển động có điều khiển đã được giải thưởng “Nhân tài đất Việt” do Báo điện tử Dân trí tổ chức về sản phẩm có định hướng ứng dụng.

GS Nguyễn Đình Đức đam mê truyền đạt kiến thức tới các sinh viên (Ảnh: NH).

Công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN

Thưa giáo sư, đến thời điểm này, đội ngũ khoa học nhà Việt Nam được thế giới ghi nhận so với thế giới như thế nào? về số lượng và chất lượng?

– Theo bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trong năm 2021.

So với mọi năm thì năm nay số lượng nhà khoa học người Việt Nam (bao gồm cả trong nước, việt kiều) có tên trong bảng xếp hạng này tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt nam.

Nếu cách đây 15-20 năm, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng gần như cuối cùng trong khu vực Đông Nam Á thì theo thống kê của Bộ Khoa học Công nghệ, tính đến năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Singapore và Malaysia), đứng thứ 49 trên thế giới.

Trong danh sách các nhà khoa học Việt Nam lọt top thế giới đã đánh dấu nhiều gương mặt các nhà khoa học trẻ. Đây có phải là bước tiến mới cho nhà khoa học trẻ Việt Nam?

– Số lượng nhà khoa học “made in Vietnam” trong top 10.000 mới có 3 và mới chỉ có 28 người trong top 100.000 – một con số còn rất khiêm tốn nhưng so với năm trước thì đã là một bước tiến vượt bậc.

Nếu nhìn danh sách ngoài top 100.000, có thể thấy năm nay đã có thêm nhiều gương mặt của các nhà khoa học trẻ Việt Nam đang làm việc tại các trường đại học trong nước đã lọt top 2% (xếp hạng từ 100.001-200.000).

Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt nam. Khi chúng ta quan tâm và triển khai nhiều chính sách cho KHCN, trong đó có đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh, tiếp cận các hướng nghiên cứu hiện đại, hỗ trợ công bố quốc tế và các nhà khoa học trẻ, đặc biệt đưa ra các yêu cầu về công bố quốc tế với các luận án tiến sĩ cũng như nâng cao tiêu chuẩn với các chức danh GS, PGS đã có hiệu quả rất tích cực.

Cần có một cơ chế “khoán 10” trong giáo dục đại học

Như đã trao đổi với ông nhiều lần trong các cuộc phỏng vấn trước, ông cho rằng, chế độ đãi ngộ nhà khoa học Việt Nam hiện nay chưa xứng tầm, vì sao vậy? đâu là nút thắt? và giải quyết vấn đề này như thế nào?

– Nếu so mức đầu tư cho một nhóm nghiên cứu có năng suất công bố quốc tế và hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tương đương nhau, thì các nhóm nghiên cứu của Việt Nam có mức đầu tư quá thấp so với thế giới.

Các nhà khoa học Việt Nam xếp hạng không thua kém các nhà khoa học nước ngoài, nhưng lương thì thấp hơn rất nhiều. Tỷ lệ đầu tư cho KHCN của Việt Nam mới đạt khoảng 0,6% GDP, cũng rất thấp so với thế giới. Đầu tư cho KHCN chưa xứng tầm với vai trò là động lực cho sự phát triển của đất nước.

Để có nguồn lực đầu tư cho KHCN và thu hút nhân tài, trọng dụng và đãi ngộ các nhà khoa học xuất sắc thì trường đại học phải có nguồn lực.

Muốn vậy, phải có một cơ chế “khoán 10” trong giáo dục đại học. Các trường đại học phải đẩy nhanh quá trình tự chủ, tích cực hơn nữa hợp tác với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần đi đôi với kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo để có cơ sở thu học phí theo định mức kinh tế kỹ thuật tương xứng cho từng ngành.

Như vậy, các trường đại học cần phải làm gì để thúc đẩy sáng tạo và thúc đẩy giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học?

– Trước hết, để thúc đẩy giới trẻ tham gia nghiên cứu khoa học thì người thầy phải là tấm gương say mê khoa học. Người thầy phải dìu dắt, truyền cảm hứng và thắp lên ngọn lửa đam mê khoa học, đam mê sáng tạo cho các em sinh viên.

Các trường đại học cần quan tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong nhà trường, đào tạo phải gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu và đặc biệt cần quan tâm xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học để tập hợp và thu hút các bạn trẻ tham gia.

Làm thế nào để các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học Việt Nam không để “ngăn kéo”, thưa ông? Chìa khóa nào để đưa các công trình nghiên cứu khoa học vào thực tế?

– Để kết quả nghiên cứu không vào “ngăn kéo” thì phải có sự đồng hành của doanh nghiệp theo mô hình 4 nhà: Nhà nước – Nhà trường – Nhà khoa học và Doanh nghiệp.

Đồng thời, phải đổi mới cách thức giao và đặt hàng các đề tài khoa học. Các nhiệm vụ KHCN phải đặt mục tiêu hướng tới thực tiễn, phục vụ thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hỗ trợ các nhà khoa học đăng ký phát minh sáng chế và bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Mô hình của một trường đại học tiên tiến trong thời đại CMCN 4.0 sẽ có 3 cấu phần chính là: Nghiên cứu, Chuyển đổi số và Đổi mới sáng tạo (Innovation). Việc đồng hành cùng doanh nghiệp và thúc đẩy, hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sẽ là động lực và chìa khóa để đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tế.

Xin trân trọng cám ơn GS!

GS Nguyễn Đình Đức: Nhà khoa học cống hiến không phải vì mục đích để xếp hạng

GDVN- Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering.

LTS: Tháng 10/2021, tạp chí PLoS Biology đã công bố danh sách 100.000 nhà nghiên cứu có trích dẫn khoa học hàng đầu thế giới theo cơ sở dữ liệu Scopus. Tác giả của bảng xếp hạng này là các Giáo sư Jeroen Baas, Kevin Boyack và John P.A. Ioannidis thuộc Đại học Stanford (Mỹ).

Các tiêu chí dùng để xếp hạng các nhà khoa học gồm có: chỉ số ảnh hưởng của nhà khoa học trong lĩnh vực và cộng đồng khoa học, tổng số trích dẫn, chỉ số H (H-index), chỉ số đồng tác giả (HM-index), số trích dẫn cho các bài báo được đăng với tư cách là tác giả duy nhất; số trích dẫn cho các bài báo là tác giả chính và tác giả cuối cùng.

Theo bảng xếp hạng này có 28 nhà khoa học người Việt đang công tác tại Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng top 100.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2021. Đặc biệt, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering.

Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức xung quanh sự kiện trên.

Phóng viên: Xin chúc mừng Giáo sư được vinh danh trong top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering. Giáo sư có thể chia sẻ về quy trình đánh giá xếp hạng bình chọn danh sách các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng thế giới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Đây là nghiên cứu độc lập của nhóm tác giả về trắc lượng khoa học có uy tín của Đại học Stanford của Hoa Kỳ. Các tiêu chí đánh giá ở bảng xếp hạng này được xem xét khá toàn diện dựa trên sự xem xét và tổ hợp (composite score) của nhiều thông số, không chỉ dựa vào tổng số trích dẫn khoa học mà một nhà nghiên cứu có được, từ đó đưa ra danh sách xếp hạng ảnh hưởng của nhà khoa học trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức – Đại học Quốc gia Hà Nội lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering (ảnh: NTCC)

Tôi cho rằng, với một nhà nghiên cứu, nếu các kết quả nghiên cứu của họ không được tham khảo, trích dẫn thì không thể định lượng được mức độ ảnh hưởng trong cộng đồng khoa học.So với mọi năm thì năm nay số lượng nhà khoa học uy tín của Việt Nam (bao gồm cả trong nước, Việt kiều) có tên trong bảng xếp hạng này tăng lên đáng kể. Đây là sự ghi nhận bước trưởng thành và từng bước lớn mạnh của khoa học công nghệ Việt Nam.

Với cá nhân tôi, sự ghi nhận này là thành quả của sau gần 40 năm làm việc, tích lũy. Các nhà khoa học cống hiến không phải vì mục đích để xếp vào hạng, nhưng dẫu sao, bảng xếp hạng này cũng là một sự ghi nhận và đánh giá khách quan, công bằng của cộng đồng quốc tế nên là sự động viên rất có ý nghĩa. Quan trọng hơn bảng xếp hạng này sẽ là sự cổ vũ, động viên rất lớn đối với các thế hệ học trò, với các trường phái khoa học mà bản thân các nhà khoa học đã tạo lập để các bạn trẻ đi theo, tự tin tiếp tục dấn thân vào con đường khoa học, hội nhập với quốc tế và tiếp cận đỉnh cao của khoa học.

Có thể thấy rất nhiều nhà khoa học ưu tú và lỗi lạc của thế giới có tên trong bảng xếp hạng này. Việc nhiều nhà khoa học “đình đám”, có uy tín trong nước và thế giới không có mặt trong top 100.000 theo năm (single year, kết quả trích dẫn khoa học của một năm gần nhất), không phải do họ không đủ uy tín, không xuất sắc mà có thể do năng suất công bố trong một vài năm gần đây thấp hơn so với các nhà khoa học khác hoặc số trích dẫn không được nổi bật. Và đây là chuyện hết sức bình thường.

Mỗi bảng xếp hạng có những tiêu chí riêng, cũng giống như các bảng xếp hạng đại học THE, QS hay ARWU,… đưa ra những tiêu chí đánh giá không giống nhau tuyệt đối, song mỗi bảng đều có ý nghĩa và giá trị, giúp cho các trường đại học biết mình đang đứng ở đâu trên trường quốc tế. Tất nhiên, bảng xếp hạng nào cũng sẽ có những tiêu chí đánh giá riêng và có thể còn những khiếm khuyết.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là bảng xếp hạng này ngoài các nhà khoa học công tác cơ sở giáo dục đại học công lập như Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thì còn có rất nhiều các nhà khoa học đến từ các cơ sở giáo dục đại học công lập tự chủ, dân lập như Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Phenikaa…

Điều này cho thấy các trường dân lập, trường tự chủ ý thức được việc xếp hạng rất quan trọng, đem lại uy tín, thương hiệu cho nhà trường nên họ đã đầu tư, thu hút nhân tài, trả lương cao, xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, thậm chí mời nhà khoa học nước ngoài đến để xây dựng nhóm nghiên cứu quốc tế. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng cho hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, là một trong những nhân tố thôi thúc các trường đại học công lập mau chóng tự chủ và đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để có nguồn lực tốt nhằm tiếp tục duy trì giữ vững thứ hạng và bứt phá vươn lên.

Giáo sư có bất ngờ khi mình lọt top 100 nhà khoa học thế giới trong lĩnh vực Engineering?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Tôi thật sự bất ngờ và cũng rất tự hào, phấn khởi, vinh dự khi là người Việt Nam, lại đang làm việc cơ hữu bền bỉ trong nước, trong điều kiện hoàn cảnh nghiên cứu còn có những khó khăn, hạn chế lại được thế giới đánh giá và xếp hạng cao so với các đồng nghiệp quốc tế. Sự đánh giá này làm cho tôi như thấy được động viên, khích lệ. Đây là thành quả của rất nhiều năm kiên trì, làm việc miệt mài, nỗ lực vượt bậc của tôi và nhóm nghiên cứu và đã được đền đáp bằng sự rút ngắn khoảng cách với các nhà khoa học trên thế giới.

Đây cũng là sự động viên rất lớn đối với các thế hệ học trò, thế hệ tiếp nối để các em vững tin dấn thân vào con đường khoa học bởi hiện nay con đường làm khoa học rất vất vả, trong khi thu nhập lại không cao. Đây cũng là niềm vui và tự hào của Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng và lĩnh vực Engineering của Việt Nam nói chung.

Giáo sư có chia sẻ gì với các nhà khoa học đang đặt mục tiêu lọt vào danh sách các nhà khoa học hàng đầu thế giới?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Từ kinh nghiệm của bản thân, tôi thấy cần cù, kiên trì và nỗ lực không ngừng với năng suất nghiên cứu ổn định và hội nhập được với trình độ và chuẩn mực quốc tế thì một ngày nào đó nhất định sẽ được ghi nhận.

Tôi cũng nhận thức được rằng, ngày hôm nay tôi có tên trong bảng xếp hạng nhưng một vài năm nữa khi ngày càng lớn tuổi, hoặc nhóm nghiên cứu có thể không duy trì được mạnh nữa thì bị loại ra khỏi danh sách này là chuyện bình thường. Đó là quy luật của sự vận động và phát triển biện chứng. Có như vậy thì thế hệ trẻ mới có cơ hội vươn lên, chạm vào vị trí tốt trong bảng xếp hạng.

Điều tôi muốn nhắn nhủ với các nhà khoa học trẻ là hạnh phúc và thành công nhất định sẽ đến với những ai kiên trì và hăng say lao động.

Ảnh minh họa: T.L

Giáo sư nhìn nhận thế nào về phong độ của các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học ở tầm cao? Ông kỳ vọng gì ở thế hệ những nhà khoa học trẻ nước ta hiện nay?

Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Năm nay xét về số lượng nhà khoa học có địa chỉ tại Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng thì có một số đáng kể là các nhà khoa học nước ngoài có hợp tác và ghi địa chỉ công tác tại Việt Nam, nhà khoa học Việt kiều.

Còn số lượng nhà khoa học “made in Vietnam” thì mới chỉ 28/100.000 – một con số còn rất khiêm tốn, nhưng so với năm trước thì đã là một bước tiến vượt bậc. Nếu nhìn danh sách ngoài top 100.000, có thể thấy có thêm nhiều những gương mặt của các nhà khoa học trẻ Việt Nam đang làm việc tại các trường đại học trong nước đã lọt xếp hạng từ 100.001-200.000.

Điều này cho thấy kết quả đáng mừng về sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam. Khi chúng ta quan tâm và triển khai nhiều chính sách cho khoa học – công nghệ, trong đó có đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh, khuyến khích công bố quốc tế tiếp cận chuẩn khu vực và quốc tế, hỗ trợ các nhà khoa học trẻ, đặc biệt đưa ra các chuẩn mực đánh giá luận văn tiến sĩ cũng như nâng cao tiêu chuẩn với các chức danh giáo sư, phó giáo sư đã có hiệu quả tích cực nhất định.

Nếu cách đây 15-20 năm, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng gần như cuối cùng trong khu vực Đông Nam Á thì theo thống kê của Bộ Khoa học Công nghệ, tính đến năm 2020 lượng công bố quốc tế của Việt Nam đã đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Singapore và Malaysia), đứng thứ 49 trên thế giới.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức!

Thùy Linh

Nhà khoa học Việt vào top xếp hạng ảnh hưởng nhất thế giới 2020

Mới đây, Tạp chí PLoS Biology của Hoa Kỳ công bố danh sách 10.000 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2020. Trong công bố này có 22 nhà khoa học Việt Nam.

 

 
Theo thứ tự trong bảng xếp hạng này, đứng đầu trong các nhà khoa học Việt Nam là GS. Nguyễn Đình Đức (ĐHQGHN) – xếp hạng 5798 thế giới; GS. Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Công nghệ Tp. HCM) – xếp hạng 6996 và PGS. Lê Hoàng Sơn (ĐHQGHN) – xếp hạng 9261 thế giới. 

Đây cũng là 3 người lọt vào top 10.000 nhà khoa học xuất sắc nhất của thế giới 2019. Ngoài 3 nhà khoa học tiêu biểu trên, danh sách còn có 19 nhà khoa học khác. Những kết quả đáng tự hào này khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của các nhà khoa học Việt Nam được ghi nhận trong cộng đồng khoa học quốc tế

cpluskey.com

Professor Nguyen Dinh Duc: Portrait of Vietnamese 3 among the world’s top scientists

This figure only counts Vietnamese scientists working in Vietnam. In addition, there are 40 others on the list working around the world. Check website

Reportedly, the author of this publication is the Metrics team of John Ioannidis (Stanford University, USA). The authors used Scopus & ISI database from 1960 to 2017 of nearly 7 million authors and filtered out the top eliteUMUM.

Accordingly, 3 Vietnamese scientists In this list is Professor Nguyen Dinh Duc, Hanoi National University (51.083) – he is an expert in advanced mechanics, materials and structures, and is currently Vice Chairman of the Vietnam Mechanics Association, Vice President Chairman of the Council on Professor title of Mechanics in Vietnam.

Professor Nguyen Thoi Trung, Director of the Institute of Computational Science of Ton Duc Thang University ranked 74.339 in this ranking.

In the year of 2017, Professor Trung was awarded the title of Outstanding Special Scientist in Scientific by Ton Duc Thang University and the Lifetime Achievement Award of 2018 …

Associate Professor Tran Xuan Bach (Hanoi Medical University, ranked 28.129), a specialist in public health research.

Associate Professor Bach was the youngest person in Vietnam to be recognized as the Associate Professor at the time of its establishment, and he was honored as the typical young face of the Capital in the year 2014.

It is noteworthy that in this ranking, there are more than 40 Vietnamese scientists, mainly Vietnamese-origin professors working at prestigious universities in the world, such as Professor Dang Chi V, University of Pennsylvania (United States, ranked 280); Prof. Dam Thanh Son, University of Chicago (USA, 2.648); Professor Nguyen, Nam-Trung of Griffith University (Australia, 4.595); Professor Vo Dinh Tuan, Duke University, USA, 15.709); Prof. Nguyen Thuc Quyen, University of California at Santa Barbara (USA, 19.282); Professor Nguyen Son Binh, Northwestern University (USA, 22.482); Professor Phan, Sem H. of the University of Michigan (USA, 23.062); Associate Professor Nguyen Xuan Hung (Sejong University, Korea, 25.269); Prof. Nguyen Hung T, NSW University of Technology (Australia, 33215); Prof. Nguyen Van Tuan, Garvan Institute (Australia, 39062); Professor Truong Nguyen Thanh, University of Utah (United States, 45612); Professor Vu Ha Van, Yale University (USA, 69.063); …

Reportedly, PLoS Biology Magazine has used Scopus & ISI database from 1960 to 2017 of nearly 7 million authors, scientists and filtered out the top leading scientists in the world.

Criteria for ranking scientists based on 6 cited data. This includes: total citations; Hirsch index h-index; hm-index index; number of citations for articles as the sole author; the number of citations to articles is the only author or the first author and the number of citations for the articles is the only author, first or last author.

TECHTIMES: https://www.techtimes.vn/en/chan-dung-3-nguoi-viet-nam-trong-top-100-000-nha-khoa-hoc-hang-dau-the-gioi/

100.000 NHÀ KHOA HỌC ẢNH HƯỞNG NHẤT THẾ GIỚI NĂM 2019

Ngày 06.7.2019, Tạp chí PLoS Biology (nguồn: DOI: 10.17632/btchxktzyw.1) mới công bố một danh sách 100,000 nhà khoa học hàng đầu trên thế giới được xếp vào nhóm được trích dẫn nhiều nhất. Tác giả của công bố này là nhóm Metrics của John Ioannidis (ĐH Stanford, Mỹ). Theo đó, nhóm tác giả đã dùng cơ sở dữ liệu của Scopus từ 1960 đến 2017 của gần 7 triệu tác giả và lọc ra tốp 100.000 người ưu tú nhất.

Việc sử dụng dữ liệu trích dẫn đã trở thành phổ biến trong các nghiên cứu và truyền thông ngày nay. Tuy nhiên, dữ liệu trích dẫn luôn có một số khó khăn nhất định để có thể sử dụng chúng như một thước đo mức độ tác động của một nghiên cứu hay sự xuất sắc của một nghiên cứu hoặc một nhà khoa học.

Nghiên cứu “A standardized citation metrics author database annotated for scientific field” của John P. A. Ioannidis và cộng sự đã chỉ ra rằng hiện nay không có cơ sở dữ liệu quy mô lớn nào xếp hạng một cách có hệ thống xếp hạng đủ “sâu” về tất cả các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong mỗi lĩnh vực khoa học. Ví dụ: Google Scholar cho phép các nhà khoa học tạo hồ sơ của họ và chia sẻ công khai, nhưng không phải tất cả các nhà nghiên cứu đã tạo hồ sơ. Clarivate Analytics cung cấp cho mỗi năm một danh sách các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong thập kỷ qua, nhưng chương trình này sử dụng phân loại khoa học thô chỉ trong 21 lĩnh vực và thậm chí danh sách mở rộng mới nhất chỉ bao gồm khoảng 6.000 nhà khoa học (https://hcr.clarivate.com/worlds-influential-scientific-minds), tức là, ít hơn 0,1% tổng số người đồng tác giả các bài báo học thuật. Hơn nữa, trong các bảng xếp hạng hiện có đều không cơ chế loại trừ việc tự trích dẫn của các nhà khoa học.

Để khắc phục những vấn đề này, nhóm nghiên cứu tạo ra một cơ sở dữ liệu có sẵn công khai gồm 100.000 nhà khoa học hàng đầu cung cấp thông tin được chuẩn hóa từ dữ liệu Scopus dựa trên xếp hạng của họ về chỉ số tổng hợp xem xét sáu số liệu trích dẫn (tổng số trích dẫn; chỉ số Hirsch h-index; chỉ số hm-index; số lượng trích dẫn cho các bài viết với tư cách là tác giả duy nhất; số lượng trích dẫn cho các bài viết là tác giả duy nhất hoặc tác giả đầu tiên và số lượng trích dẫn cho các bài viết là tác giả duy nhất, đầu tiên hoặc cuối cùng). Các nhà khoa học được phân loại thành 22 lĩnh vực khoa học và 176 lĩnh vực phụ (ngành/chuyên ngành).

Trong bảng dữ liệu các trích dẫn trong năm 2017, bảng dữ liệu đã cho thấy hiệu suất nghiên cứu của các nhà khoa học trong cùng năm. Cùng với đó, bảng dữ liệu này có ưu điểm lớn nhất là đã loại bỏ những việc tự trích dẫn của nhà khoa học (việc một số ít các nhà khoa học tự trích dẫn ồ ạt làm cho số lượng trích dẫn trở lên thiếu đi sự ý nghĩa vốn có của nó).

Đáng lưu ý là trong bảng xếp hạng này có hơn 40 nhà khoa học Việt Nam, chủ yếu là các GS gốc Việt đang làm việc tại các trường đại học danh tiếng trên thế giới, như   GS Dang, Chi V,  ĐH  Pennsylvania (Hoa Kỳ, xếp thứ 280); GS Đàm Thanh Sơn , ĐH Chicago (Hoa Kỳ, 2648); GS Nguyen, Nam-Trung của ĐH Griffith  (Úc,4595); GS Võ Dinh Tuan, ĐH Duke, Hoa Kỳ, 15709);  GS Nguyễn Thục Quyên, Đại học California tại Santa Barbara (Hoa Kỳ, 19282); GS Nguyễn Sơn Bình, ĐH Northwestern (Hoa Kỳ, 22482); GS Phan, Sem H. của ĐH Michigan (Hoa Kỳ, 23062); PGS Nguyễn Xuân Hùng (ĐH Sejong, Hàn Quốc, 25.269); GS Nguyen Hung T, ĐH Công nghệ NSW (Úc, 33215); GS Nguyễn Văn Tuấn, viện Garvan (Úc, 39062); GS Trương Nguyện Thành, ĐH Utah (Hoa Kỳ, 45612);  GS Vũ Hà Văn, Đại học Yale (Hoa Kỳ, 69.063); …

Mới có một số rất ít các nhà khoa học trong nước có tên trong danh sách này, tiêu biểu như PGS.TS Trần Xuân Bách (ĐH Y Hà Nội, 28.129), chuyên gia nghiên cứu về y tế cộng đồng. PGS Bách từng là người trẻ nhất Việt Nam được công nhận chức danh PGS năm 2016 khi mới 32 tuổi, và ông được vinh danh là gương mặt trẻ Thủ đô tiêu biểu năm 2016;  PGS.TS Nguyễn Thời Trung, Viện trưởng Viện khoa học tính toán của Đại học Tôn Đức Thắng (74339). Năm 2017, PGSTrung đã được Đại học Tôn Đức Thắng tặng thưởng danh hiệu “Nhà khoa học đặc biệt xuất sắc trong nghiên cứu khoa học” và Giải thưởng Thành tựu trọn đời (Lifetime Achievement),…

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng PTN Vật liệu và kết cấu tiên tiến, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông của Trường ĐH Công nghệ, là GS của ĐHQGHN đứng trong bảng xếp hạng này (thứ 51.083). Ông là chuyên gia về Cơ học, vật liệu và kết cấu tiên tiến, hiện là Phó Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng chức danh GS ngành Cơ học của Việt Nam.

Sự có mặt của các nhà khoa học xuất sắc trong nước, tuy còn ít ỏi, nhưng đã thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của các nhà khoa học Việt Nam đang từng bước khẳng định và hội nhập với các chuẩn mực của quốc tế.

GS Nguyễn Đình Đức – Trưởng PTN được mời tham gia Hội đồng biên tập của tạp chí quốc tế ISI uy tín

18.9.2019, GS Nguyễn Đình Đức được mời tham gia Hội đồng biên tập banko kupon (Editorial Board) của tạp chí ISI có uy tín của thế giới trong lĩnh vực Engineering (hạng Q1, NXB Elsevier, tạp chí danh mục SCIE, IF =3.696):
 
Tạp chí : Alexandria Engineering Journal:
 
https://www.journals.elsevier.com/alexandria-engineering-journal/editorial-board
 
Như vậy, đến nay, là thành viên Ban biên tập của 6 tạp chí quốc tế ISI:
 
• The member of Editorial Advisory Board of Journal Cogent Engineering: (ISI Journal, NXB Taylor & Francis, UK).
 
• The member of Editor Board – Journal of Science: Advanced Materials and Devices (ISI journal, NXB Elsevier).
 
• The member of Editor Board – Journal of Science and Engineering of Composite Materials (SCIE journal, NXB De Gruyter, Germany).
 
• The member of Editor Board of Journal of Mechanical Engineering Science (SCI journal, NXB SAGE, UK)
 
• The member of Editorial Board of Journal “Science Progress” (SCIE Journal, NXB SAGE, UK).
 
• The member of Editorial Board of Alexandria Engineering Journal (SCIE journal, NXB Elsivier).
 
Tự hào vì tên tuổi của GS, các kết quả nghiên cứu của PTN, sau những nỗ lực vượt bậc và sự kiên trì, lao động quên mình, đã được cộng đồng khoa học quốc tế ngày càng biết đến và ghi nhận, tôn vinh. 

windows 10 pro kaufen

THÀNH QUẢ 10 NĂM XÂY DỰNG NHÓM NGHIÊN CỨU (2009-2019)

Nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Đức:

THÀNH QUẢ 10 NĂM XÂY DỰNG NHÓM NGHIÊN CỨU (2009-2019) – MỘT CHẶNG ĐƯỜNG:

Nhóm nghiên cứu là tiền thân của PTN và cũng từ đó thành lập Bộ môn mới, Khoa mới, ngành mới.

Trên 250 bài báo, công trình;

136 BÀI ISI,

trong đó 95 bài chỉ số ảnh hưởng Impact Factor (IF) trên 2.0, 48 bài IF trên 3.0; 37 bài IF trên 4.0 và 13 bài IF trên 5.0;

1 bằng sáng chế,

Thành lập 1 PTN – Bộ môn mới Vật liệu và Kết cấu tiên tiến thuộc Khoa Cơ Kỹ thuật và Tự động hóa (2015);

Thành lập 1 Khoa mới Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng giao thông ở ĐH Công nghệ (2018) và Xây dựng PTN tiên tiến chống chịu các điều kiện khắc nghiệt thuộc Khoa;

Thành lập 1 ngành mới thạc sỹ Kỹ thuật hạ tầng (Civil Engineering) ở ĐH Việt Nhật (2016) và đến nay đã đào tạo và tuyển sinh Khóa 4; Xây dựng xong PTN kỹ thuật hạ tầng ở ĐH Việt Nhật;

Mở mới chuyên ngành đào tạo kỹ sư Vật liệu và Kết cấu tiên tiến (bằng Cơ học Kỹ thuật) và đến nay đào tạo được khóa thứ 4 chuyên ngành này with this site;

Mở mới đào tạo ngành kỹ sư Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng – Giao thông và năm nay tuyển sinh Khóa 3, được 106 em/98 chỉ tiêu;

Mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới ở ĐHQGHN về vật liệu và kết cấu thông minh; vật liệu nano và composite; tối ưu hóa; thích ứng với biến đổi khí hậu; năng lượng mới; kỹ thuật hạ tầng và công trình xây dựng; CMCN 4.0; ứng dụng composite và vật liệu tiên tiến trong kỹ thuật và an ninh quốc phòng,…

Đào tạo 6 NCS đã nhận bằng TS và đang đào tạo 10 NCS, mỗi năm công bố 15-20 bài trên các tạp chí quốc tế ISI uy tín.

Tổ chức nhiều HN quốc tế lớn ở trong và ngoài nước; và GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng NNC – được mời làm invited speaker ở hầu hết tất cả các hội nghị quốc tế lớn ở nước ngoài; mở rộng hợp tác quốc tế với các đại học lớn của UK, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc,..

GS Đức cũng là thành viên Ban biên tập của 5 Tạp chí Quốc tế ISI. Ủy viên Hội đồng quốc tế về vật liệu thông minh có cơ lý tính biến đổi FGM.

Đấy là thành quả sau 10 porn năm kiên trì và gian khổ, vượt qua bao khó khăn thử thách, biết bao mồ hôi và nước mắt để xây dựng Nhóm nghiên cứu từ con số 0 (2009, khi GS Đức còn là Phó Hiệu trưởng ĐH Công nghệ) và được đến cơ ngơi như ngày hôm nay (2019).

Hết lòng vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Nghiên cứu khoa học hội nhập sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Phấn đấu không ngừng, không mệt mỏi mỗi ngày cho ĐHQGHN, cho tương lai của thế hệ trẻ và cho đất nước.

Cống hiến, thiệt thòi, hy sinh.

Kiên trì nhẫn nại vượt qua những thử thách, đố kỵ, ghen ghét, hẹp hòi !

Cao thượng ! Tha thứ và bao dung !

Giản dị, nhịn nhường, làm nên những điều vĩ đại !

Xin cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ hết lòng của lãnh đạo ĐHQGHN, Ban giám hiệu ĐH Công nghệ, Ban giám hiệu ĐH Việt Nhật, BCN Khoa Cơ học Kỹ thuật và Tự  brazzers động hóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ KHCN, các đối tác trong nước, quốc tế và tất các các thầy cô, đồng nghiệp trong và ngoài nước, các em NCS, HVCH, sinh viên trong Nhóm nghiên cứu.

Xin chúc các thầy cô và các em một năm học mới 2019-2020 thật tốt lành và thật nhiều thành công.

windows 10 education kaufen